Bộ Tài nguyên và Môi trường: Nồng độ bụi mịn PM2.5 có lúc vượt ngưỡng cho phép

Nhàđầutư
Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa có báo cáo Thủ tướng Chính phủ về chất lượng không khí tại Hà Nội và TP.HCM. Theo đó, nồng độ bụi mịn PM2.5 có nhiều thời điểm vượt ngưỡng cho phép tại hai thành phố lớn nhất Việt Nam.
NHÂN HÀ
09, Tháng 10, 2019 | 18:39

Nhàđầutư
Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa có báo cáo Thủ tướng Chính phủ về chất lượng không khí tại Hà Nội và TP.HCM. Theo đó, nồng độ bụi mịn PM2.5 có nhiều thời điểm vượt ngưỡng cho phép tại hai thành phố lớn nhất Việt Nam.

19a094ec-df22-4301-9fad-29fe38d432e6

nồng độ bụi mịn PM2.5 có nhiều thời điểm vượt ngưỡng cho phép. Ảnh: minh họa

Cụ thể theo báo cáo, trong tháng 9/2019, vấn đề chất lượng không khí tại các đô thị lớn, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội đang nhận được sự quan tâm của cộng đồng. Liên tiếp trong nhiều ngày, có những thời điểm chỉ số chất lượng không khí (AQI) của Hà Nội ở mức "kém". Trong khi đó, tại TP.HCM cũng xuất hiện hiện tượng sương mù quang hóa gây cản trở tầm nhìn. Việc gia tăng mức độ ô nhiễm và hiện tượng sương mù quang hóa này đã gây những ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng.

Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, tại Hà Nội, trong thời gian từ ngày 12-29/9, có những ngày nồng độ bụi mịn PM2.5 vượt ngưỡng cho phép của quy chuẩn Việt Nam. Tuy nhiên, các thông số khác (NO2, O3, CO, SO2) vẫn nằm trong giới hạn cho phép.

Theo số liệu từ 13 trạm quan trắc tự động cho thấy nồng độ bụi mịn PM2.5 trên địa bàn TP.Hà Nội có xu hướng gia tăng trong thời gian từ ngày 12-17/9, sau đó giảm từ ngày 18-22/9 và tăng cao trở lại, duy trì liên tiếp trong các ngày từ 23-29/9.

Trong các ngày từ 15-17/9 và 23-29/9, có đến trên 75% giá trị bụi mịn PM2.5 trung bình 24 giờ của các trạm vượt tiêu chuẩn quy định tại quy chuẩn Việt Nam. Đặc biệt trong các ngày từ 25-29/9, toàn bộ các trạm đều có giá trị bụi mịn PM2.5 trung bình 24 giờ vượt tiêu chuẩn quy định tại quy chuẩn Việt Nam.

Kết quả tính toán AQI tại các trạm trong các ngày từ 12-29/9 cho thấy, chỉ 5/18 ngày có AQI ở mức trung bình, các ngày còn lại chỉ số AQI luôn ở mức “kém”. AQI có xu hướng gia tăng và duy trì ở mức cao trong các ngày từ 23-29/9. Nhiều trạm AQI ngày đã tăng cao gần tới mức “xấu”, đặc biệt trong ngày 29/9 còn ghi nhận giá trị AQI ngày của trạm Đại sứ quán Mỹ đã vượt mức “xấu”.

Các khoảng thời gian ghi nhận giá trị bụi mịn PM2.5 tăng và duy trì ở mức cao thường là đêm và sáng sớm. AQI tính theo giờ trong khoảng thời gian từ ngày 23-29/9 cũng ở mức “kém”, thậm chí có những giờ lên đến mức “xấu”. Đặc biệt, trong buổi sáng các ngày liên tiếp từ 25-30/9/2019 ghi nhận một số trạm AQI giờ đã vượt ngưỡng 200, ở mức “xấu”.

Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng cho thấy qua việc theo dõi, phân tích số liệu quan trắc trong nhiều năm qua, xu hướng biến động của bụi PM10 và PM2.5 tại các thành phố phía Bắc của Việt Nam, trong đó có thành phố Hà Nội, phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết khí hậu.

Theo nhận định sơ bộ, nguyên nhân khiến bụi mịn PM2.5 tăng cao vì đây là thời điểm giao mùa, thời tiết thay đổi, khối không khí lạnh từ phía Bắc khuếch tán xuống phía Nam tạo nên dãy hội tụ nhiệt đới kết hợp với không khí lạnh gây hiện tượng nghịch nhiệt, làm gia tăng nồng độ các chất ô nhiễm trong không khí.

Trong khi đó, tại TP.HCM, trong tháng 9 cũng là thời điểm giao mùa (cuối mùa mưa, đầu mùa khô), điều kiện thời tiết bất lợi dẫn đến hiện tượng nghịch nhiệt làm giảm khả năng hòa trộn và phát tán các chất ô nhiễm trong không khí cũng như làm xuất hiện tượng sương mù quang hóa. Vì thế, chất lượng không khí cũng có những diễn biến theo chiều hướng xấu.

Theo báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường TP.HCM, hiện tượng sương mù quang hóa xảy ra trên địa bàn thành phố mang tính chu kỳ vào khoảng 6-7 ngày trong khoảng tháng 9, tháng 10 hàng năm.

Trong năm 2019, hiện tượng sương mù quang hóa đã xảy ra trong thời gian từ ngày 18-22/9. Tổng hợp kết quả quan trắc của Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh và trạm quan trắc tự động của Lãnh sự quán Mỹ tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, từ ngày 1-23/9 có sự gia tăng mạnh mẽ nồng độ bụi mịn PM2.5 trong không khí. Tuy nhiên nồng độ bụi mịn PM2.5 phần lớn vẫn nằm trong giới hạn cho phép của quy chuẩn Việt Nam.

Nhìn chung, chất lượng không khí tại Hà Nội, đặc biệt là đối với nồng độ bụi mịn PM2.5 có nhiều thời điểm vượt ngưỡng cho phép. Tại Thành phố Hồ Chí Minh nồng độ bụi PM2.5 cũng gia tăng, song hiện tượng ô nhiễm không khí chỉ mang tính cục bộ tại một số khu vực, một số thời điểm nhất định. Bụi PM2.5 và chỉ số AQI ở mức xấu hơn trong thời gian đêm và sáng sớm. Thời gian còn lại trong ngày khi có thay đổi về điều kiện thời tiết, các thông số này đều giảm đi.

Phân tích các nguyên nhân khiến bầu không khí gần đây đang bị "nhiễm bẩn", Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng không khí tại các đô thị chịu ảnh hưởng tổng hợp từ rất nhiều nguồn thải, bao gồm các nguồn tại chỗ như từ các hoạt động dân sinh, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải... và cả những nguồn từ xa vận chuyển đến.

Vì vậy, ngoài nguyên nhân sơ bộ như thời gian này là thời điểm giao mùa, thời điểm thu hoạch lúa với hoạt động đốt rơm rạ, ở khu vực ngoại thành còn có các nguyên nhân chính gây ra tình trạng ô nhiễm không khí như: Quá trình đô thị hóa và hoạt động kinh tế-xã hội đang diễn ra rất mạnh mẽ ở các đô thị nước ta, trong khi đó hệ thống hạ tầng kỹ thuật môi trường chưa được quan tâm đầu tư xây dựng tương xứng với yêu cầu của quá trình phát triển.

Ngoài ra, hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý, đốt chất thải sinh hoạt, sản phẩm phụ nông nghiệp sau thu hoạch không đúng quy định tại các khu vực ven đô gây hiện tượng khói mù, thói quen sử dụng than tổ ong trong sinh hoạt của người dân vùng ven đô; các nguồn thải vận chuyển từ xa đến (ô nhiễm xuyên biên giới) như khói bụi do cháy rừng từ các quốc gia lân cận, bụi mịn do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành công nghiệp nặng theo gió mùa Đông Bắc vận chuyển về.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24760.00 24780.00 25100.00
EUR 26510.00 26616.00 27788.00
GBP 30879.00 31065.00 32019.00
HKD 3122.00 3135.00 3237.00
CHF 27134.00 27243.00 28089.00
JPY 161.27 161.92 169.44
AUD 16132.00 16197.00 16688.00
SGD 18162.00 18235.00 18775.00
THB 661.00 664.00 692.00
CAD 18070.00 18143.00 18678.00
NZD   14796.00 15288.00
KRW   17.71 19.31
DKK   3559.00 3691.00
SEK   2301.00 2391.00
NOK   2281.00 2372.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ