Bộ Công Thương đưa 3 giải pháp kiểm soát lạm phát, giá xăng dầu

Nhàđầutư
Trả lời tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 10, Thứ trưởng Bộ Công Thương đưa 3 giải pháp để kiểm soát lạm phát, giá xăng dầu trong những tháng cuối năm 2021 để đảm bảo mục tiêu Quốc hội đề ra.
ĐÌNH VŨ
06, Tháng 11, 2021 | 23:56

Nhàđầutư
Trả lời tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 10, Thứ trưởng Bộ Công Thương đưa 3 giải pháp để kiểm soát lạm phát, giá xăng dầu trong những tháng cuối năm 2021 để đảm bảo mục tiêu Quốc hội đề ra.

do-thang-hai

Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải. Ảnh: Chinhphu.vn

Tại họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 10/2021, trả lời câu hỏi về việc tăng giá nguyên liệu trên thế giới như xăng dầu, than… sẽ ảnh hưởng thế nào đến lạm phát, cung ứng hàng hoá của nước ta và giải pháp trong thời gian tới, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho biết: Việt Nam đã kiểm soát được bước đầu dịch bệnh, các địa phương cũng đã nới lỏng giãn cách. Tuy nhiên, nhiều mặt hàng, đặc biệt là giá nguyên liệu trên thế giới như xăng dầu, than, kể cả giá vận chuyển, không những tăng mà còn tăng rất cao. Điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến CPI (lạm phát).

"Chỉ số CPI tháng 10 giảm 2% so với tháng trước, tăng 1,67% so với tháng 12/2020, tăng 1,77% so với cùng kỳ. Tính chung 10 tháng 2021, CPI tăng 1,81% so với cùng kỳ - đây là mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016, lạm phát cơ bản tăng 0,84% so với cùng kỳ. Trong cả năm 2021, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được mục tiêu Quốc hội đã đề ra, CPI cả năm sẽ  vào khoảng 2%", Thứ trưởng đưa dự báo.

Bước sang năm 2022, trên thế giới và trong nước có thể đạt được miễn dịch cộng đồng, khiến nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ, đồng thời sẽ tạo áp lực rất lớn lên lạm phát. Chắc chắn việc tăng giá các mặt hàng như xăng dầu, than… sẽ làm ảnh hưởng đến giá thành cao lên, chi phí sản xuất cũng cao lên, khiến giá hàng tiêu dùng trong nước tăng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi chúng ta xuất khẩu sang các nước. Để xử lý các vấn đề này, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cho biết, ngay từ đầu năm, Chính phủ đã chỉ đạo rất quyết liệt, rất nhiều bộ, ngành đã vào cuộc và đã có tác dụng và hiệu quả để giảm áp lực của việc tăng giá thành.

"Đối với mặt hàng xăng dầu, liên Bộ Công Thương - Tài chính đã linh hoạt, hiệu quả sử dụng quỹ bình ổn giá. Từ đầu năm đến nay, giá xăng dầu trên thế giới tăng 59,08-76,03%, tuy nhiên vì trong nước sử dụng quỹ bình ổn, giá xăng dầu trong nước chỉ tăng 40,23-52,59%. Mặc dù đây vẫn là mức tăng rất cao và ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp và người dân nhưng cũng là sự cố gắng, nỗ lực của liên Bộ và Chính phủ", Thứ trưởng nhấn mạnh.

Sắp tới, Bộ Công Thương cho rằng cần có một số giải pháp chính để kiểm soát lạm phát, đảm bảo nguồn cung hàng hoá như: Tiếp tục theo dõi chặt chẽ giá cả, diễn biến, tình hình lạm phát của các nước trên thế giới, có sự tham khảo kịp thời để đánh giá các nguy cơ ảnh hưởng đến giá cả và lạm phát của Việt Nam. Đặc biệt cần đánh giá nguyên vật liệu nào có khả năng thiếu hụt tạm thời hay trong dài hạn trong nước, để từ đó đưa ra được chính sách đối ứng cho phù hợp.

Tiếp theo là chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hoá, giảm áp lực lạm phát, cần có thông tin kịp thời rõ ràng, chính xác về các chính sách chỉ đạo điều hành của Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương, nhằm loại bỏ thông tin sai lệch về giá cả thị trường, không để xảy ra hiện tượng lạm phát do tâm lý.

Cuối cùng là cần có dự báo giá cả nguyên liệu trên thế giới sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới, cần nỗ lực đàm phán để có được nguồn nguyên liệu thô thông qua tăng cường hợp tác từ cấp Chính phủ đến các bộ, ngành để hỗ trợ doanh nghiệp, ký kết các hợp đồng nhập khẩu nguyên liệu dài hạn để đảm bảo nguyên liệu đầu vào, ổn định sản xuất, qua đó kiểm soát lạm phát cũng như đảm bảo ảnh hưởng ít nhất đến đời sống của người dân, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25157.00 25457.00
EUR 26777.00 26885.00 28090.00
GBP 31177.00 31365.00 32350.00
HKD 3185.00 3198.00 3304.00
CHF 27495.00 27605.00 28476.00
JPY 161.96 162.61 170.17
AUD 16468.00 16534.00 17043.00
SGD 18463.00 18537.00 19095.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18207.00 18280.00 18826.00
NZD 0000000 15007.00 15516.00
KRW 0000000 17.91 19.60
       
       
       

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ