WB: Dự báo tăng trưởng 2020 của Việt Nam đạt 6,5%

Nhàđầutư
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 được dự báo sẽ tăng nhẹ lên mức 2,5%. Trong khi đó tăng trưởng của Việt Nam được tổ chức này dự báo chỉ tăng 6,5%, giảm 0,3 điểm phần trăm so với ước tính năm 2019.
ĐÌNH VŨ
09, Tháng 01, 2020 | 14:02

Nhàđầutư
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 được dự báo sẽ tăng nhẹ lên mức 2,5%. Trong khi đó tăng trưởng của Việt Nam được tổ chức này dự báo chỉ tăng 6,5%, giảm 0,3 điểm phần trăm so với ước tính năm 2019.

Theo Báo cáo viễn cảnh kinh tế toàn cầu của WB, tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ tăng nhẹ lên 2,5% trong năm 2020 do đầu tư và thương mại dần khôi phục sau một năm ảm đạm, nhưng rủi ro suy giảm vẫn tồn tại.

Tăng trưởng tại nhóm các nền kinh tế hiện đại được dự báo sẽ giảm xuống 1,4% trong năm 2020, một phần do sản xuất chế tạo và chế biến tiếp tục chững lại.

Tăng trưởng ở các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi dự kiến sẽ tăng lên 4,1%. Tuy nhiên, quá trình phục hồi diễn ra không đồng đều, với giả định rằng kinh tế sẽ cải thiện ở một nhóm nhỏ các nền kinh tế lớn, trong đó có một số quốc gia phục hồi sau một giai đoạn suy yếu đáng kể.

Theo đó, WB cho rằng, tăng trưởng sẽ giảm tốc ở khoảng một phần ba các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi trong năm nay do đầu tư và xuất khẩu yếu hơn so với dự kiến.

GDP

WB dự báo GDP Việt Nam năm 2020 đạt 6,5%

Phó chủ tịch Ngân hàng Thế giới Phụ trách về Tăng trưởng Công bằng, Tài chính và Thể chế, Ceyla Pazarbasioglu cho rằng, các biện pháp cải thiện môi trường kinh doanh, thượng tôn pháp luật, quản lý nợ, nâng cao năng suất có thể giúp đảm bảo tăng trưởng bền vững.

Tăng trưởng của Mỹ theo dự báo sẽ chững lại ở mức 1,8% cho năm nay, do tác động tiêu cực của các động thái tăng thuế quan trước đó và tình trạng bất định gia tăng.

Tăng trưởng ở khu vực đồng Euro theo dự báo sẽ trượt dốc xuống mức thấp hơn là 1% vào năm 2020 do các hoạt động công nghiệp yếu đi.

Theo WB, căng thẳng thương mại tái leo thang cùng bất định về chính sách thương mại, suy giảm mạnh hơn dự kiến ở các nền kinh tế lớn, biến động tài chính ở các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi sẽ ảnh hưởng tới triển vọng kinh tế toàn cầu thời gian tới. Thậm chí khi tăng trưởng ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi được hồi phục theo dự kiến, tăng trưởng theo đầu người vẫn thấp hơn so với mức bình quân trong dài hạn và thấp hơn nhiều so với mức cần thiết để hoàn thành các mục tiêu về xóa nghèo.

Tăng trưởng Trung Quốc suy giảm

Tại Trung Quốc, tăng trưởng tiếp tục giảm tốc do điều kiện tài chính bị thắt chặt đối với khu vực phi ngân hàng của nền kinh tế và bất định chính sách thương mại tăng trong năm 2019. Cú sốc tiêu cực lên xuất khẩu và sản lượng do thách thức bên ngoài phần nào được xử lý bằng các biện pháp chính sách tài khóa, giảm giá đồng tiền, điều chỉnh giá cả, hồi hương một phần các hoạt động sản xuất, và chuyển hướng xuất khẩu sang các quốc gia khác.

Theo nhận định của WB, tăng trưởng trong khu vực Đông Á và Thái Bình Dương được dự báo sẽ chững lại còn 5,7% vào năm 2020, do tăng trưởng của Trung Quốc tiếp tục giảm còn 5,9%. Diễn biến đó phản ánh trở ngại tiếp tục diễn ra cả trong nước và bên ngoài, bao gồm tác động kéo dài của căng thẳng thương mại, cho dù đã có thỏa thuận giai đoạn một giữa Trung Quốc và Mỹ. 

Tăng trưởng trong khu vực nếu không tính Trung Quốc được dự báo sẽ khôi phục nhẹ lên 4,9%, do sức cầu trong nước được hưởng lợi nhờ tình hình tài chính nhìn chung thuận lợi, với lạm phát thấp và dòng vốn đầu tư mạnh mẽ đổ vào một số quốc gia như: Cam-pu-chia, Phi-líp-pin, Thái Lan và Việt Nam, kết hợp với các dự án hạ tầng công quy mô lớn được đưa vào sử dụng ở Phi-líp-pin và Thái Lan.

Theo dự báo tăng trưởng các quốc gia trong khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của WB, năm 2019 ước tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 6,8%; năm 2020 và năm 2021 dự báo tăng trưởng kinh tế đạt 6,5%.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25100.00 25120.00 25440.00
EUR 26325.00 26431.00 27607.00
GBP 30757.00 30943.00 31897.00
HKD 3164.00 3177.00 3280.00
CHF 27183.00 27292.00 28129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15911.00 15975.00 16463.00
SGD 18186.00 18259.00 18792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17956.00 18028.00 18551.00
NZD   14666.00 15158.00
KRW   17.43 19.02
DKK   3535.00 3663.00
SEK   2264.00 2350.00
NOK   2259.00 2347.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ