Vinaconex có gì cuốn hút các nhà đầu tư tham gia?

Nhàđầutư
Sở hữu quỹ đất lớn có lẽ là lý giải hợp lý nhất cho phiên đấu giá thành công cổ phần Vinaconex.
HUY NGỌC
25, Tháng 11, 2018 | 08:38

Nhàđầutư
Sở hữu quỹ đất lớn có lẽ là lý giải hợp lý nhất cho phiên đấu giá thành công cổ phần Vinaconex.

nhadautu - tai sao co phan vinaconex lai dat hang

Vinaconex (VCG) đang sở hữu quỹ đất lớn. 

Phiên đấu giá cổ phần của Tổng Công ty CP Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (mã VCG - Vinaconex) do SCIC và Viettel nắm giữ đều đã diễn ra thành công.

Đại diện SCIC nhận định, sự thành công của cuộc đấu giá đến từ lô cổ phần được chào bán với số lượng lớn (hơn 50%) và qua đó cũng giúp nhà đầu tư nắm quyền kiểm soát công ty.

Ngoài ra, đại diện SCIC đánh giá trị nội tại doanh nghiệp cũng là nguyên nhân khiến cổ phần VCG hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy vậy, có thể thấy kết quả kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng này trong năm 2018 không mấy tích cực.

Điểm qua có thể thấy, doanh thu thuần Vinaconex riêng quý III/2018 chỉ đạt 2.222 tỷ đồng, giảm 8,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Do đó, lãi sau thuế Vinaconex giảm 29% còn 185,4 tỷ đồng. Tính sau 9 tháng đầu năm 2018, Vinaconex ghi nhận lãi ròng giảm 40% còn 368 tỷ đồng.

Chỉ số về vốn trên bảng cân đối kế toán cũng cho thấy các vấn đề của Vinaconex. Cụ thể, nợ vay doanh nghiệp chiếm hơn 4.000 tỷ đồng, tương đương 25% tổng nguồn vốn công ty và gấp 1,61 lần vốn chủ sở hữu VCG.

Khó có thể nghĩ rằng cổ phiếu VCG lại đắt khách như vậy vì kết quả kinh doanh trong năm 2018 liên tục giảm sút. Nhiều ý kiến đánh giá, sức mạnh “nội tại” của doanh nghiệp này đến từ quỹ đất.

Hiện tại, quỹ đất của Vinaconex gồm 9 công trình được giao và 7 dự án đầu tư. Một số lô đất hiện hành là trường học, như Trường trung học Lý Thái Tổ (7.847,3 m2), trường tiểu học Lý Thái Tổ Khu đô thị Trung Hoà Nhân Chính (6.229,4 m2), trường mầm non 1 Lý Thái Tổ Khu đô thị TRung Hoà Nhân Chính (4.740 m2), trường mầm non 2 Lý Thái Tổ Khu đô thị TRung Hoà Nhân Chính (5.127,2 m2),…; một số là trụ sở Vinaconex như Văn phòng miền Trung tại số 320 Đường 2/9 Phường Hòa Cường Bắc, Q.Hải Châu, TP Đà Nẵng (380 m2); Trụ sở Tổng công ty tại 34 Láng Hạ, Hà Nội (2.713,9 m2),…

"Quỹ đất" của Vinaconex:

VCG1

 

VCG2

 

VCG3

 

VCG4

 

VCG5

 

VCG6

 

VCG7

 

Có thể thấy phần lớn các diện tích đất địa bàn ở Hà Nội là đất khu công nghiệp, điển hình là Khu công nghiệp Công nghệ cao 1 (243.100 m2), Khu công nghiệp Công nghệ cao 2 (936.000 m2).  

Ngoài ra, cũng phải kể đến dự án Khu đô thị Splendora với diện tích 264,13 ha, giai đoạn 1 đã triển khai xây dựng gần 47ha với 317 căn biệt thự, 236 căn liền kề và 496 căn hộ chung cư. Giai đoạn 2, công ty sẽ triển khai phần diện tích còn lại với hạ tầng gồm biệt thự, nhà liền kề, chung cư, hỗn hợp nhà cao tầng, trường học và công cộng.

Ngoài ra, doanh nghiệp cũng đang thực hiện dự án cải tạo chung cư cũ 97-99 Láng Hạ với tổng mức đầu tư dự kiến (trước VAT) là 603,8 tỷ đồng; dự án 2B Vinata (quý IV/2016 – Quý IV/2018) với tổng giá trị đầu tư 618,737 tỷ đồng.

Lượng quỹ đất lớn sẽ là lợi thế với các doanh nghiệp bất động sản lớn nếu chi phối lượng cổ phần tại Vinaconex. Chưa kể, kinh nghiệm trong lĩnh vực xây lắp của Vinaconex cũng có thể hỗ trợ trong quá trình triển khai dự án.

Theo kế hoạch, Vinaconex sẽ tập trung đầu mối kinh doanh tại 2 công ty là Vinaconex CM và Vinaconex Invest.

Vinaconex dự kiến thoái vốn tại nhiều doanh nghiệp, cụ thể: giảm tỷ lệ sở hữu Tổng công ty còn 36% vốn điều lệ Vinaconex 2, Vinaconex 9 và Vinaconex 12; thoái toàn bộ vốn tại 4 công ty là Vinaconex 7, Vinata, VVF, Viwasupo. Việc thoái vốn những khoản đầu tư tại các công ty con và công ty liên kết này sẽ mang lại khoản lợi nhuận cho doanh nghiệp và giảm chi phí quản lý và nhân sự để tập trung hoạt động cốt lõi. Tuy vậy, nó cũng mang lại rủi ro khi doanh nghiệp không còn ghi nhận dòng tiền lợi ích từ một số công ty con, công ty liên kết.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25030.00 25048.00 25348.00
EUR 26214.00 26319.00 27471.00
GBP 30655.00 30840.00 31767.00
HKD 3156.00 3169.00 3269.00
CHF 27071.00 27180.00 27992.00
JPY 159.45 160.09 167.24
AUD 15862.00 15926.00 16400.00
SGD 18109.00 18182.00 18699.00
THB 667.00 670.00 696.00
CAD 17920.00 17992.00 18500.00
NZD   14570.00 15049.00
KRW   17.26 18.81
DKK   3520.00 3646.00
SEK   2265.00 2349.00
NOK   2255.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ