Vietjet và Vietnam Airlines làm ăn ra sao nửa đầu năm?

Nhàđầutư
Hàng không được đánh giá là lĩnh vực chịu nhiều tác động tiêu cực bởi dịch bệnh COVID-19, do vậy không bất ngờ khi Vietjet và Vietnam Airlines ghi nhận kết quả kinh doanh nửa đầu năm giảm sút mạnh.
NHẬT HUỲNH
04, Tháng 08, 2020 | 16:39

Nhàđầutư
Hàng không được đánh giá là lĩnh vực chịu nhiều tác động tiêu cực bởi dịch bệnh COVID-19, do vậy không bất ngờ khi Vietjet và Vietnam Airlines ghi nhận kết quả kinh doanh nửa đầu năm giảm sút mạnh.

7b88a2be4a04d4ebb345609c267ea91a-112435

Hàng không là lĩnh vực được đánh giá là chịu nhiều tác động tiêu cực bởi dịch bệnh COVID-19. Ảnh báo Nhân dân.

CTCP Hàng không Vietjet (mã VJC) vừa công bố BCTC hợp nhất quý II/2020 với doanh thu thuần đạt mức 4.969 tỷ đồng, giảm tới 60,76% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, giá vốn hàng bán trong kỳ lên tới 5.078 tỷ đồng, dẫn đến công ty lỗ gộp 108,9 tỷ đồng.

Doanh thu hoạt động tài chính là điểm sáng trong báo cáo kết quả kinh doanh quý 2/2020 của VJC. Cụ thể, doanh nghiệp này ghi nhận doanh thu từ hoạt động tài chính lên tới 1.174 tỷ đồng, cao gấp 8,2 lần so với cùng kỳ năm trước. Nguồn doanh thu này chủ yếu đến từ lãi chênh lệch tỷ giá hối đoái chưa thực hiện (388,4 tỷ đồng) và thu nhập tài chính khác (597,79 tỷ đồng).

Bên cạnh đó, thu nhập khác của VJC cũng tăng mạnh, đạt mức 413 tỷ đồng, cao gấp 23 lần so với cùng kỳ. Sau khi trừ đi các chi phí, VJC báo lãi 1.063 tỷ đồng trong quý 2/2020, cao gần gấp đôi so với cùng kỳ năm 2019. Kết quả này có phần bất ngờ bởi tác động tiêu cực mà dịch bệnh COVID-19 gây ra đối với hoạt động vận chuyển hành khách của VJC trong nửa đầu năm 2020 là không hề nhỏ.

Theo giải trình của VJC, mặc dù các biện pháp giãn cách xã hội được thực hiện trong tháng 4, nhưng hãng vẫn nỗ lực đạt được hơn 300 chuyến bay chuyên dụng cho hàng hóa (CoB) và thực hiện được 14.000 chuyến bay trong quý 2/2020. Bên cạnh đó, Vietjet còn tích cực tìm kiếm đối tác và đã thực hiện giải pháp thương mại tài chính tàu bay tạo ra nguồn lợi nhuận sau thuế 1.063 tỷ đồng, tăng cường nguồn hỗ trợ cho dịch vụ vận tải hàng không.

Trong các tháng tiếp theo, VJC sẽ tiếp tục tập trung các giải pháp tiết kiệm chi phí, tối ưu hóa hoạt động như chương trình bảo hiểm xăng dầu trong giai đoạn giá thấp, tăng cường đàm phán giảm giá dịch vụ từ các nhà cung cấp, tối ưu hóa nguồn lực và các giải pháp tăng nguồn thu như thực hiện các chuyến bay hàng hóa nhằm gia tăng hiệu quả hoạt động hàng không.

Dẫu vậy, nếu tính chung 6 tháng đầu năm thì kết quả kinh doanh của Vietjet cũng có phần giảm sút khi doanh thu thuần đạt 12.200 tỷ đồng, giảm một nửa so với cùng kỳ năm trước và lợi nhuận sau thuế giảm đến 1.900 tỷ đồng so với nửa đầu năm 2019.

Không chỉ riêng Vietjet, Tổng Công ty Hàng không Việt Nam – CTCP (Vietnam Airlines - HVN) cũng ghi nhận kết quả tiêu cực. 

Cụ thể, theo báo cáo tài chính hợp nhất quý 2/2020, doanh thu thuần của Vietnam Airlines đạt 5.995 tỷ đồng, giảm 75% so với cùng kỳ năm trước. Kinh doanh dưới giá vốn, HVN báo lỗ gộp 3.873 tỷ đồng. Sau khi trừ đi các khoản chi phí khác, HVN báo lỗ sau thuế 4.030 tỷ đồng, trong khi kỳ cùng kỳ năm trước báo lãi 168,9 tỷ đồng.

Lũy kế nửa đầu năm 2020, HVN ghi nhận doanh thu thuần đạt 24.808 tỷ đồng, bằng một nửa so với cùng kỳ năm 2019; lỗ sau thuế đạt 6.642 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm trước báo lãi 1.381 tỷ đồng.

Tính đến ngày 30/6/2020, quy mô tổng tài sản của HVN đạt 66.690 tỷ đồng, giảm 12,7% so với đầu năm, chủ yếu là tài sản cố định 44.533 tỷ đồng. Dẫu vậy, tiền và tương đương tiền của HVN chỉ đạt 2.601 tỷ đồng, giảm 12% so với hồi đầu năm. Bên kia bảng cân đối kế toán HVN vẫn còn đến 55.262 tỷ đồng nợ phải trả, trong đó nợ ngắn hạn 30.456 tỷ đồng, cao hơn 18.395 tỷ đồng so với tài sản ngắn hạn.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ