TS. Lê Xuân Nghĩa: Dư địa giảm lãi suất còn lớn

Nhàđầutư
TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, dù Chính phủ, NHNN đã có nhiều nỗ lực để giảm lãi suất hỗ trợ nền kinh tế phục hồi nhưng lãi suất mới giảm ở phía huy động, còn lãi suất cho vay vẫn đang ở cao. Chuyên gia này khuyến nghị Việt Nam còn dư địa rất lớn để tiếp tục giảm lãi suất cho vay.
ĐÌNH VŨ
11, Tháng 08, 2023 | 07:30

Nhàđầutư
TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, dù Chính phủ, NHNN đã có nhiều nỗ lực để giảm lãi suất hỗ trợ nền kinh tế phục hồi nhưng lãi suất mới giảm ở phía huy động, còn lãi suất cho vay vẫn đang ở cao. Chuyên gia này khuyến nghị Việt Nam còn dư địa rất lớn để tiếp tục giảm lãi suất cho vay.

Empty

TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia. Ảnh: Trọng Hiếu

Lãi suất vẫn cao, cung tiền vẫn thấp

Chia sẻ về chính sách tiền tệ, lãi suất năm 2023, TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia nhận định, chính sách tiền tệ thời gian gần đây bắt đầu chuyển hướng sang hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, lãi suất đã giảm khá nhanh ở phân khúc tiền gửi nhưng lãi suất thực cho vay vẫn còn rất cao. 

Lý giải cho vấn đề này, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vẫn còn lo ngại về một số vấn đề như tỷ giá, xu hướng phục hồi của nền kinh tế và theo sau đó là lạm phát.

Theo đó, 3 nguyên nhân được vị này chỉ ra để cho thấy NHNN vẫn còn dư địa để tiếp tục giảm lãi suất từ nay tới cuối năm.

Thứ nhất là tỷ giá ổn định, gần như không còn áp lực lên chính sách tiền tệ. Cụ thể, chỉ số Dollar-Index đã giảm mạnh từ đỉnh 115 điểm xuống 102 điểm. Dự báo chỉ số này sẽ tiếp tục giảm quanh mức 100 điểm. "Điều này cho thấy áp lực với tỷ giá VND gần như không còn hoặc rất nhỏ", ông Nghĩa nói. USD giảm giá trong bối cảnh, thặng dư thương mại hiện khá lớn, NHNN tăng mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối; nguy cơ giá xăng dầu tăng mạnh được kiềm chế bởi chính sách giảm thuế nhập khẩu của Bộ Tài chính đưa tới kỳ vọng tỷ giá hối đoái sẽ ổn định đến hết năm 2024.

Thứ hai, theo thống kê chỉ số PMI của Việt Nam, từ tháng 11 năm ngoái đến tháng 6 năm nay đi ngang quanh mức 46 - 47 điểm (trừ tháng 2 là 51,2 do yếu tố thời vụ) và bắt đầu hồi phục nhẹ vào tháng 7/2023 (48,7 điểm) với mức tăng 2,5 điểm. Ông Nghĩa cho rằng, có thể nền kinh tế đã tạo đáy và đang phục hồi nhẹ, điều này sẽ thể hiện rõ hơn từ quý IV. Theo đó, đây là thời điểm quan trọng để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi.

Thứ ba, lãi suất Việt Nam còn phụ thuộc vào xu hướng các NHTW thế giới. Theo đó, các dự báo đều cho rằng chính sách tiền tệ của FED từ cuối năm nay sẽ dừng tăng lãi suất và bắt đầu giảm vào đầu năm 2024. Các NHTW Châu Âu cuối năm nay cũng sẽ giảm mạnh tốc độ tăng lãi suất. "Vì thế cơ hội để NHNN giảm mạnh lãi suất hiện nay là khá rõ ràng và dư địa giảm lãi suất của Việt Nam còn rất lớn. Lãi suất chỉ nên thực dương 2% (giả sử lạm phát 4% thì lãi suất trên thị trường là 6%/năm cho kỳ hạn 12 tháng và lãi suất cho vay quanh mức 8%/năm).", ông Nghĩa khuyến nghị.

Tuy nhiên, ông Nghĩa lưu ý, quan trọng ở thời điểm hiện tại không chỉ là vấn đề lãi suất, mà còn là cung tiền (M2). Hiện nay tăng trưởng cung tiền đang rất thấp so với GDP tính theo giá hiện hành.

"GDP tính theo giá hiện hành đâu đó khoảng 7%, trong khi tăng trưởng cung tiền chỉ 3%, vòng quay đồng tiền chỉ 0,64 vòng/năm (trong khi ở điều kiện bình thường thì vòng quay tiền là khoảng 2 vòng/năm). Điều này khiến thanh khoản toàn bộ nền kinh tế suy kiệt, mặc dù tiền có trong các NHTM vẫn dồi dào", ông Nghĩa chia sẻ.

Cùng với đó, lý giải về tăng trưởng tín dụng thấp, ông Nghĩa cho biết, điều kiện cấp tín dụng của ngân hàng hiện nay quá khó khăn. "Có hai điều kiện để cấp tín dụng là tài sản thế chấp và khả năng trả nợ hình thành trong tương lai. Vào giai đoạn khủng hoảng, tất cả các nước sẽ áp dụng điều kiện cấp tín dụng bằng khả năng trả nợ thay vì tài sản thế chấp, còn ngân hàng ở ta lại kiên quyết áp dụng cả 2 loại điều kiện trên", ông Nghĩa trao đổi.

Lấy ví dụ về khó khăn tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp, vị chuyên gia này chia sẻ, có doanh nghiệp xuất khẩu thức ăn chay sang châu Âu, năm ngoái doanh thu 10 tỷ, năm nay đơn đặt hàng lên tới 25 tỷ nhưng khi ra ngân hàng trình bày phương án để vay thêm vốn, ngân hàng vẫn chỉ cho vay bằng doanh thu 10 tỷ năm ngoái và không cho vay thêm vì không có tài sản đảm bảo bổ sung. Điều này khiến doanh nghiệp dù có đơn hàng nhưng lại không thể mở rộng được sản xuất.

"Trong điều kiện kinh tế khó khăn, khi có "tia sáng" cuối đường hầm thì ngân hàng cần bám vào đó để hỗ trợ doanh nghiệp. Cần thẩm định cho vay theo khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong tương lai thay vì đòi thế chấp", ông Nghĩa nhấn mạnh.

Theo đó, ông Nghĩa đề xuất, các NHTM, đặc biệt NHTM lớn tập trung vào khả năng sống sót của DN để quyết định bơm thêm tín dụng. Đây sẽ là nền tảng để lấy lại niềm tin cho DN, đằng sau đó niềm tin của thị trường, đặc biệt là thị trường bất động sản, chứng khoán. 

Sự ổn định "quý giá"

Trong báo cáo "Dữ liệu Việt Nam tháng 7 – Sự ổn định quý giá" phát hành mới đây, Khối Nghiên cứu Kinh tế Toàn cầu HSBC cho biết, sau mức tăng trưởng GDP khá khiêm tốn 3,7% trong nửa đầu năm 2023, những dấu hiệu tích cực đang âm thầm xuất hiện. Tuy nhiên, thách thức không hề mờ nhạt, nhưng các chỉ số tần suất cao cho thấy một số dấu hiệu ổn định tích cực.

Bất ngờ lớn nhất xuất hiện ở các lĩnh vực giao thương bên ngoài. Dẫu cho xuất khẩu tiếp tục giảm so với cùng kỳ, nhưng mức giảm chỉ ở mức thấp 3,5%. Mặc dù điều này một phần là do hiệu ứng cơ sở thuận lợi, nhưng xuất khẩu trong tháng 7 đã tăng lên mức cao nhất trong vòng 9 tháng.

Trong khi các mặt hàng xuất khẩu chính, bao gồm dệt may/giày dép và điện thoại, tiếp tục chịu sự sụt giảm ở mức hai con số, thì các lô hàng máy tính và linh kiện điện tử lại bất ngờ bù đắp phần nào những khó khăn này, tăng vọt 32% so với cùng kỳ.

Theo nhóm phân tích, các hiệu ứng cơ sở đã phần nào hỗ trợ, nhưng các dấu hiệu đang cho thấy một sự ổn định quý giá – đặc biệt là từ các hoạt động nhập khẩu liên quan đến máy tính. 

"Mặc dù còn sớm để nói, nhưng các chỉ số PMI tương lai đang cho thấy triển vọng thương mại ngắn hạn của Việt Nam sẽ ổn định hơn – đầu tiên là dừng đà suy giảm, sau đó thương mại sẽ phục hồi rõ ràng hơn", Bộ phận nghiên cứu HSBC nhận định.

Bất chấp những thách thức bên ngoài đang tiếp diễn, triển vọng FDI của Việt Nam vẫn còn vẹn nguyên. Vốn FDI mới đạt 3% GDP trong quý II/2023, ngang bằng với năm 2022. Mặc dù tốc độ tăng trưởng chậm lại so với mức đỉnh hơn 7% trong năm 2017, các điều kiện thắt chặt tiền tệ toàn cầu trong những năm gần đây phần nào lý giải cho sự giảm tốc này, nhưng so với các quốc gia trong khu vực, Việt Nam vẫn là nước nhận FDI lớn thứ hai trong ASEAN tính theo phần trăm GDP, chỉ sau Malaysia. Các gã khổng lồ công nghệ trên thế giới, bao gồm Infineon, LG, Foxconn, tiếp tục công bố kế hoạch mở rộng tại Việt Nam. Tất cả những yếu tố này mang lại hy vọng rằng lĩnh vực giao thương của Việt Nam sẽ phục hồi mạnh mẽ một khi chu kỳ thương mại khởi sắc.

Lạm phát tiếp tục mang lại nhiều tín hiệu tốt. Trong tháng 7, lạm phát toàn phần chỉ tăng 2,1% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với mức trần lạm phát 4,5% của NHNN do lạm phát năng lượng tiếp tục giảm. Mặc dù các dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ cho thấy lạm phát có thể sẽ giảm tốc so với lạm phát toàn phần, động lực lạm phát đã trở nên ít đáng ngại hơn đối với NHNN, điều này đảm bảo sẽ có thêm hỗ trợ tiền tệ.

Nhóm phân tích kỳ vọng NHNN sẽ thực hiện cắt giảm lãi suất thêm 0,5 điểm %, và sẽ là lần cắt giảm lãi suất cuối cùng trong chu kỳ nới lỏng hiện tại. Dù vậy, NHNN đã phát đi tín hiệu sẵn sàng thực hiện nhiều biện pháp hơn nếu "điều kiện thị trường cho phép".

Tại Nghị quyết 124 của Chính phủ ban hành ngày 10/8, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo yêu cầu Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương tiếp tục điều hành chủ động, kịp thời, linh hoạt, sáng tạo, trọng tâm, trọng điểm, phù hợp, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách khác để thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; giữ ổn định thị trường ngoại tệ, điều hành tỷ giá phù hợp tình hình;

Triển khai kịp thời, có hiệu quả chính sách giãn, hoãn, cơ cấu lại nợ vay; chỉ đạo điều hành quyết liệt để tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất, nhất là lãi suất cho vay, tăng cung tiền, tăng tín dụng phù hợp gắn với nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng, tập trung cho sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ