TP.HCM: Giải ngân vốn ODA chậm do ‘vướng’ ở 2 dự án metro

Theo bà Phạm Thị Hồng Hà - Giám đốc Sở Tài chính TP.HCM, tốc độ giải ngân vốn ODA đến tháng 6/2020 chậm, thấp hơn giải ngân vốn đầu tư công nói chung. Nguyên nhân do TP.HCM đang trình Thủ tướng điều chỉnh thời gian triển khai dự án, thẩm định điều chỉnh lại thiết kế cơ sở của tuyến metro số 1 và 2.
KỲ PHONG
25, Tháng 06, 2020 | 15:37

Theo bà Phạm Thị Hồng Hà - Giám đốc Sở Tài chính TP.HCM, tốc độ giải ngân vốn ODA đến tháng 6/2020 chậm, thấp hơn giải ngân vốn đầu tư công nói chung. Nguyên nhân do TP.HCM đang trình Thủ tướng điều chỉnh thời gian triển khai dự án, thẩm định điều chỉnh lại thiết kế cơ sở của tuyến metro số 1 và 2.

Tại hội nghị trực tuyến sơ kết và thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công nguồn vốn vay nước ngoài năm 2020, do Bộ Tài chính tổ chức ngày 25/6, bà Phạm Thị Hồng Hà, Giám đốc Sở Tài chính TP.HCM, cho biết tính đến tháng 6/2020 TP.HCM đang triển khai 9 dự án sử dụng vốn vay nước ngoài với tổng vốn hơn 122.500 tỷ đồng.

Trong đó vốn ODA là 102.732 tỷ đồng, vốn đối ứng là 19.835 tỷ đồng. Các dự án này tập trung vào phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, chống ngập và cải thiện môi trường.

Tính đến tháng 6, luỹ kế giải ngân vốn ODA đạt 1.601 tỷ đồng, bằng 10,31% kế hoạch vốn được giao. Tốc độ giải ngân này được TP.HCM đánh giá còn chậm, thấp hơn giải ngân vốn đầu tư công nói chung.

56182432_314129679276323_1940263415977082880_n

Dự án metro số 1 hiện đang trên đà về đích.

“Nguyên nhân do TP.HCM đang trình Thủ tướng điều chỉnh thời gian triển khai dự án, thẩm định điều chỉnh lại thiết kế cơ sở của tuyến metro số 1 và 2. Hiện nay mới được phê duyệt kế hoạch lựa chọn và tổ chức đầu thầu, một số gói thầu phải huỷ đấu lại. Ngoài ra, do thời gian thực hiện kéo dài nên TP phải đàm phán lại hợp đồng đã ký cho phù hợp thực tế giải quyết tranh chấp liên quan tới hợp đồng”, bà Hà nói.

Bên cạnh đó, theo bà Hà, do ảnh hưởng bởi COVID-19 nên chưa thể hoàn tất các thủ tục cho các chuyên gia nước ngoài vào làm việc tại TP, nhất đối với các gói thầu ngắn hạn cần phải có sự tham gia của các chuyên gia châu Âu và Nhật Bản. Tuy nhiên, TP chuẩn bị các cơ sở chuẩn bị cách ly để phục vụ cho các chuyên gia nước ngoài.

Về giải pháp xử lý, lãnh đạo Sở Tài chính TP.HCM thông tin, vừa qua TP đã làm việc với đoàn công tác của Bộ Tài chính. Theo đó, đã kiến nghị hàng loạt vấn đề như: Bộ Tài chính tham mưu cấp có thẩm quyền quyết định tổng mức vay và bội chi ngân sách TP hàng năm cho chi đầu tư phát triển phù hợp với tình hình thực tế của dự án ODA và tiến độ cam kết giải ngân với nhà tài trợ.

Đối với dự án metro số 1, đề nghị Bộ Tài chính sớm có văn bản gửi Bộ Kế hoạch - Đầu tư để thống nhất lại giá trị vốn vay ODA cấp phát từ ngân sách trung ương chưa giải ngân cho dự án là 17.814 tỷ Yên và quy đổi ra Việt Nam đồng theo tỷ giá tại thời điểm cấp phát.

Bộ Tài chính chấp thuận để TP.HCM được hoàn vốn đã ứng trước cho dự án hơn 4.149 tỷ đồng.

Đối với dự án metro số 2, bà Hà đề nghị Bộ Tài chính xem xét gia hạn thời gian giải ngân đến ngày 30/12/2026 và điều chỉnh lịch trả nợ của hai khoản vay WB đến ngày 30/9/2027. Đồng thời, thẩm định hồ sơ cho vay lại đối với dự án để làm cơ sở ký các hiệp định vay bổ sung vốn cho dự án theo hồ sơ mà TP.HCM đã đề nghị.

Liên quan đến 2 dự án metro số 1 và 2, Ban Quản lý đường sắt đô thị TP.HCM cho biết, hai dự án này được vay vốn của JICA (Nhật Bản), Ngân hàng châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư châu Âu (EIB)… Tuy nhiên, cả 2 dự án đều đang bị chậm tiến độ, vốn vay không thể giải ngân.

Cụ thể, dự án đầu tư xây dựng tuyến đô thị số 1 (metro số 1 đoạn Bến Thành - Suối Tiên) có tổng mức đầu tư (đã điều chỉnh) hơn 43.757 tỷ đồng; thời gian hoàn thành công trình đưa vào khai thác quý IV/2021; tổng chiều dài khoảng 19,7 km với 3 ga ngầm và 11 ga trên cao.

Trong khi đó, dự án xây dựng tuyến tàu điện ngầm số 2 (Metro số 2) có tổng mức đầu tư 47.890 tỷ đồng giai đoạn 1 (Bến Thành - Tham Lương); giai đoạn 2 khoảng 1,482 tỷ USD và giai đoạn 3 là 2,714 tỷ USD; tổng chiều dài toàn tuyến 48 km.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25155.00 25161.00 25461.00
EUR 26745.00 26852.00 28057.00
GBP 31052.00 31239.00 32222.00
HKD 3181.00 3194.00 3300.00
CHF 27405.00 27515.00 28381.00
JPY 159.98 160.62 168.02
AUD 16385.00 16451.00 16959.00
SGD 18381.00 18455.00 19010.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18134.00 18207.00 18750.00
NZD   14961.00 15469.00
KRW   17.80 19.47
DKK   3592.00 3726.00
SEK   2290.00 2379.00
NOK   2277.00 2368.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ