Top cổ phiếu sinh lời nhất tuần qua: Cổ phiếu vẫn tăng mạnh dù thuộc diện kiểm soát, kết quả kinh doanh lỗ

Nhàđầutư
Bên cạnh sự tăng trưởng của các mã cổ phiếu vốn hóa lớn, tuần giao dịch này cũng ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ của nhiều cổ phiếu nhỏ.
BẢO LINH
15, Tháng 10, 2017 | 10:40

Nhàđầutư
Bên cạnh sự tăng trưởng của các mã cổ phiếu vốn hóa lớn, tuần giao dịch này cũng ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ của nhiều cổ phiếu nhỏ.

Tuần giao dịch thứ hai của tháng 10 (9/10 – 13/10) ghi nhận VN-Index tiếp tục chinh phục mốc kháng cự tâm lý 820 điểm.

Tuần giao dịch vừa qua cũng diễn biến khá tích cực với 5 phiên giao dịch đều tăng điểm. Qua đó, đóng cửa phiên giao dịch 13/10, VN-Index đạt 820,95 điểm, tăng gần 12 điểm so với phiên giao dịch đầu tuần.

Điều đặc biệt là ngoài các mã cổ phiếu vốn hóa lớn, nhiều mã cổ phiếu nhỏ cũng tăng trưởng mạnh và đóng góp điểm số đáng kể với VN-Index.

Thanh khoản VN-Index tuần này cũng tăng trưởng tốt đạt gần 3.448 tỷ đồng và tăng gần 18% so với tuần giao dịch trước.

HSX

 Top cổ phiếu tăng/giảm mạnh nhất trên HOSE

Trên sàn HOSE, ‘Quán quân’ tăng điểm tuần này là HAI. Theo đó, mã này đã tăng 29,72% lên đến 12.000 đồng/cổ phiếu. Tuần giao dịch vừa rồi của cổ phiếu này ngợp sắc tím. Tính ra, HAI đã tăng trần 8 phiên liên tiếp.

Tuần giao dịch này ghi nhận VOS tăng rất mạnh 15,64% lên 2.070 đồng/cổ phiếu bất chấp kết quả kinh doanh tồi tệ và án hủy niêm yết cận kề do lỗ liên tiếp ba năm liên tiếp.

Ngoài ra, cũng có một số đại diện lọt vào top tăng điểm khác như PTL (9,24% - 4.490 đồng) đang nằm trong diện kiểm soát do lợi nhuận sau thuế của cổ đông công ty mẹ trên báo cáo tài chính hợp nhất âm 36,1 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế chưa phân phối tính đến ngày 30/6/2017 là -178,689 tỷ đồng; PTC (8,33% - 6.500 đồng) chuyển từ diện kiểm soát sang diện cạnh bảo do lợi nhuận sau thuế cổ đông công ty mẹ 6 tháng đầu năm 2016 là 52,533 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế chưa phân phối tại ngày 30/6/2016 là -0,956 tỷ đồng.

Ở chiều ngược lại, cổ phiếu EMC giảm điểm mạnh nhất trên HOSE sau chuỗi thời gian tăng trưởng mạnh. Trong tuần giao dịch vừa rồi, mã này đã giảm 18,44% xuống 18.800 đồng/cổ phiếu.

Cùng với đó, một cổ phiếu đáng chú ý khác là BHN cũng giảm mạnh. Theo đó, với 4 phiên giao dịch giảm điểm liên tiếp, trong đó một phiên giao dịch giảm sàn, BHN đã giảm 13,89% còn 115.400 đồng/cổ phiếu.

HNX

Top cổ phiếu tăng/giảm mạnh nhất trên HNX 

Trên sàn HNX, NDF đã có tuần giao dịch khởi sắc khi tăng 25% lên 8.500 đồng/cổ phiếu. Trong khi tuần giao dịch trước đó, NDF đã có diễn biến tiêu cực khi giảm gần 27% xuống mức 6.500 đồng/cổ phiếu.

‘Á quân’ tăng điểm trên HNX là PMB. Tuần giao dịch vừa rồi, mã này đã tăng 25% lên 13.500 đồng/cổ phiếu. PMB tăng mạnh trong thời điểm mã này chuẩn bị tổ chức ĐHĐCĐ bất thường vì ông Vũ Phương Nam, thành viên Ban kiểm soát của PMB bị khởi tố và tạm giam do liên quan vụ việc xảy ra tại đơn vị ông làm kế toán trưởng trước là Công ty CP Hóa dầu và Xơ sợi Dầu khí (Tập đoàn Dầu khí Việt Nam).

Ở chiều ngược lại, PIV giảm điểm mạnh nhất trên HNX. Tuần giao dịch vừa rồi, PIV giảm đến 25,31% xuống 36.000 đồng/cổ phiếu. OCH đứng thứ hai khi giảm 18,95% còn 7.700 đồng/cổ phiếu.

CTP tiếp tục trình diễn bộ mặt đáng thất vọng. Tuần giao dịch vừa rồi, CTP giảm 13,33% còn 14.300 đồng/cổ phiếu. Trong BCTC quý III/2017 chưa soát xét, CTP ghi nhận lợi nhuận sau thuế đạt 4,5 tỷ đồng trong khi cùng kỳ chỉ là 896 triệu đồng.

Lũy kế 9 tháng đầu năm, doanh thu thuần CTP đạt 183 tỷ, tăng 55% so với 9 tháng đầu năm 2016. Lợi nhuận sau thuế 17,9 tỷ đồng, tăng 210%.

UpCOm

Top cổ phiếu tăng/giảm mạnh nhất trên UpCom 

Trên sàn UpCom, RGC tăng 70,73% lên mốc 7.000 đồng/cổ phiếu. Đứng thứ hai là TND khi tăng 66,31% lên 14.968 đồng/cổ phiếu.

Ở chiều giảm, HAF (8.700 đồng) dẫn đầu UpCom khi giảm 24,35%. Trong khi đó, SLC (8.500 đồng) giảm đến 26,09%.

TỪ KHÓA:
Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25100.00 25120.00 25440.00
EUR 26325.00 26431.00 27607.00
GBP 30757.00 30943.00 31897.00
HKD 3164.00 3177.00 3280.00
CHF 27183.00 27292.00 28129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15911.00 15975.00 16463.00
SGD 18186.00 18259.00 18792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17956.00 18028.00 18551.00
NZD   14666.00 15158.00
KRW   17.43 19.02
DKK   3535.00 3663.00
SEK   2264.00 2350.00
NOK   2259.00 2347.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ