Thủ tướng chỉ ra tồn tại trong thanh tra giám sát ngân hàng

Nhàđầutư
Chiều 9/1, Thủ tướng Chính phủ đã dự Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2018 do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tổ chức. Tại đây, Thủ tướng đã chỉ ra những mặt làm được và chưa được của NHNN trong năm vừa qua, định hướng công tác cho thời gian tới.
ĐÌNH VŨ
10, Tháng 01, 2018 | 11:59

Nhàđầutư
Chiều 9/1, Thủ tướng Chính phủ đã dự Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2018 do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tổ chức. Tại đây, Thủ tướng đã chỉ ra những mặt làm được và chưa được của NHNN trong năm vừa qua, định hướng công tác cho thời gian tới.

HIEU5364

Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2018 

Agribank sẽ giảm 0,5% lãi suất từ ngày 10/1/2018

Cụ thể, về những mặt làm được, Thủ tướng cho rằng, ngành ngân hàng cũng đóng góp một số kỷ lục như hoàn thành sớm mục tiêu dự trữ ngoại hối đạt 50 tỷ USD vào năm 2020 (bằng khoảng 14 – 15 tuần nhập khẩu) khi hiện nay, chúng ta đã đạt mức 53 tỷ USD. Thủ tướng nhìn nhận, chính sách tỷ giá hợp lý giúp tăng nhanh dự trữ ngoại hối nêu trên.

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, hiệu quả, duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ; tiếp tục kiểm soát được lạm phát ở mức 3,53%, thấp hơn mục tiêu Quốc hội đề ra.

Ngân hàng tiếp tục phát huy vai trò là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế. “Chúng tôi đánh giá cao chính sách lãi suất được điều chỉnh hợp lý. Lãi suất trong năm qua đã giảm 0,5-1%, giúp doanh nghiệp giảm bớt chi phí vốn”, Thủ tướng nhìn nhận và hoan nghênh phát biểu của đại diện Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại hội nghị là sẽ giảm tiếp 0,5% nữa từ ngày mai (10/1).

Nhìn nhận quá trình cơ cấu lại hệ thống tín dụng và cơ cấu lại nợ xấu được quan tâm triển khai sớm, đạt kết quả tốt, Thủ tướng khẳng định quan điểm: Nhà nước bảo vệ chính đáng quyền lợi của người gửi tiền trong mọi tình huống, chúng ta đủ khả năng làm điều đó.

Còn tồn tại liên quan tới công tác thanh tra, giám sát ngân hàng

Bên cạnh việc biểu dương những mặt đã làm được, Thủ tướng cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế cần tập trung khắc phục như chất lượng tín dụng được cải thiện nhưng chưa bền vững. Cơ cấu tín dụng chuyển dịch tương đối tích cực nhưng chưa chủ động, mạnh mẽ theo hướng thị trường. Vẫn còn tổ chức tín dụng yếu kém, nợ xấu cao, cần tiếp tục tái cơ cấu mạnh mẽ hơn. Công tác thanh tra, giám sát ngân hàng tuy có tiến bộ nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Khả năng phát hiện và cảnh báo sớm, phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng còn hạn chế.

Với tinh thần đó, Thủ tướng yêu cầu thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm. Chính sách tiền tệ, tỷ giá tiếp tục điều hành hiệu quả và kết hợp hài hòa với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác. Thực hiện cho được cam kết ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức thấp, thúc đẩy tăng trưởng 2018 cũng như trong trung và dài hạn.

Quản lý tốt hơn nữa thị trường ngoại tệ, thị trường vàng, dự báo được những biến động bất lợi, phấn đấu tiếp tục tăng dự trữ ngoại hối, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.

Tín dụng tập trung vào những lĩnh vực Chính phủ ưu tiên phát triển. Cần quan tâm phát triển thị trường tín dụng tiêu dùng, tài chính vi mô, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.

Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, thanh tra, giám sát của NHNN để kịp thời phát hiện, hạn chế tối đa sai phạm, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với hệ thống ngân hàng.

Thủ tướng yêu cầu đẩy mạnh phát triển ứng dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại để theo kịp xu hướng mới của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, hội nhập hiệu quả với hệ thống ngân hàng quốc tế. Chú trọng bảo đảm an ninh an toàn, tránh rủi ro, tiêu cực từ mặt trái của công nghệ số.

Chủ động triển khai đề án hoàn thiện khung pháp lý quản lý chặt chẽ các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ