Nhân viên ngân hàng nào làm ra hơn một tỷ đồng tiền lãi?

Nhân viên một số ngân hàng như Techcombank, Vietcombank dẫn đầu về hiệu suất làm việc khi năm qua mang về trung bình hơn một tỷ đồng lợi nhuận trước thuế.
LỆ CHI
13, Tháng 02, 2019 | 16:28

Nhân viên một số ngân hàng như Techcombank, Vietcombank dẫn đầu về hiệu suất làm việc khi năm qua mang về trung bình hơn một tỷ đồng lợi nhuận trước thuế.

Hiệu quả kinh doanh trên mỗi nhân viên của các ngân hàng mặc dù không phản ánh hoàn toàn chính xác, nhưng cũng phần nào cho thấy hiện trạng hoạt động của từng nhà băng trong hệ thống.

Dựa trên báo cáo tài chính năm 2018 cho thấy, đứng đầu danh sách về hiệu quả hoạt động là nhân viên Ngân hàng Kỹ Thương - Techcombank. Cụ thể, đến cuối năm 2018, ngân hàng (hợp nhất) có 9.757 nhân viên, tăng thêm 1.429 nhân sự, trong đó nhân viên của ngân hàng mẹ là 9.210 người, tăng 1.399 người.

nhan-vien-ngan-hang

Hiệu suất làm việc của nhân viên ngân hàng ngày càng cao. 

Tổng thu nhập hoạt động hợp nhất của nhà băng này trong năm qua đạt 18.346 tỷ đồng còn lợi nhuận là 10.600 tỷ. Theo đó, ước tính trung bình mỗi nhân viên Techcombank tạo ra hơn 1,88 tỷ đồng doanh thu và 1,09 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế. 

Kế tiếp là hiệu suất làm việc của nhân viên Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). Căn cứ vào báo cáo tài chính quý IV/2018 của Vietcombank cho thấy kết thúc năm qua, nhà băng này có lãi trước thuế đạt 18.300 tỷ đồng, cao nhất trong hệ thống ngân hàng hiện nay.

Tuy nhiên, do quy mô nhân viên lớn, lên đến 17.216 người. Theo đó, ước tính trung bình mỗi nhân viên Vietcombank tạo ra hơn 1,06 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế; cải thiện khá nhiều so với năm trước nhưng vẫn thấp hơn Techcombank.

Trong khi đó, ba "ông lớn" ngân hàng còn lại do năm nay lợi nhuận bị tụt lại so với một số ngân hàng tư nhân khác, cộng với lượng nhân viên tăng lên nên tính ra hiệu suất bình quân của mỗi nhân viên khá thấp. 

Cụ thể, trong năm 2018, VietinBank đạt lợi nhuận hợp nhất trước thuế chỉ khoảng 6.800 tỷ đồng, thấp hơn gần 2.500 tỷ so với năm trước. Trong khi tổng số nhân viên tính đến cuối năm 2018 là 24.197 người, tăng 413 người. Theo đó, ước tính trung bình mỗi nhân viên của ngân hàng trong năm 2018 chỉ tạo ra được 281 triệu đồng lợi nhuận trước thuế.

Còn BIDV năm nay lợi nhuận hợp nhất trước thuế đạt gần 9.500 tỷ đồng, tăng hơn 800 tỷ so với năm trước, nhưng vẫn bị Techcombank "vượt mặt". Mặt khác, quy mô nhân viên của nhân hàng khá lớn nên theo ước tính, trung bình mỗi nhân viên của BIDV năm 2018 chỉ mang về hơn 373 triệu đồng tiền lãi cho ngân hàng. 

Một ngân hàng cổ phần khác đạt con số lợi nhuận khá cao trong năm qua là VPBank khi lãi trước thuế gần 9.200 tỷ đồng. Cũng do quy mô nhân viên hợp nhất lên đến 27.429 người (trong đó nhân viên của FE Credit và các công ty con chiếm gần 16.000) nên ước tính trung bình mỗi nhân viên của nhà băng này chỉ tạo ra được 335 triệu đồng lợi nhuận trước thuế. Còn nếu tính theo báo cáo riêng lẻ, trung bình mỗi nhân viên VPBank kiếm được gần 700 triệu đồng cho ngân hàng trong năm qua.

Với ACB, sau khoảng thời gian tái cơ cấu do bị ảnh hưởng từ vụ "Bầu Kiên", năm 2018 đã ghi nhận con số lợi nhuận "khủng" gần 6.400 tỷ đồng, bình quân mỗi nhân viên ước tính tạo ra hơn 580 triệu đồng cho nhà băng. 

Các ngân hàng khác cũng ghi nhận có sự gia tăng hiệu suất làm việc của nhân viên trong năm qua khi hoạt động của các nhà băng đang dần trở lại thời hoàng kim và đạt những con số lãi khủng qua báo cáo tài chính.

Một lãnh đạo Vietcombank từng chia sẻ, để có được "vị ngọt" như ngày hôm nay, trong nhiều năm qua, ban lãnh đạo ngân hàng đã quyết liệt tái cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống nhân sự để giúp hoạt động hiệu quả hơn. Nhà băng cũng đã xây dựng được chỉ số KPI cho từng cá nhân, từ đó tạo điều kiện cho mỗi người có cơ hội phát triển hết năng lực của mình.  

(Theo VnExpress)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ