Dữ trữ ngoại hối đạt kỷ lục, tăng 2,5 lần so với năm 2015

Nhàđầutư
Tham dự Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp năm 2019, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng nêu cao tinh thần đồng hành với doanh nghiệp của ngành ngân hàng, cùng với đó là cam kết giữ ổn định lãi suất, tỷ giá để hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất.
ĐÌNH VŨ
23, Tháng 12, 2019 | 15:28

Nhàđầutư
Tham dự Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp năm 2019, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng nêu cao tinh thần đồng hành với doanh nghiệp của ngành ngân hàng, cùng với đó là cam kết giữ ổn định lãi suất, tỷ giá để hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất.

Phát biểu tại Hội nghị, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, trên cơ sở định hướng của Chính phủ, NHNN đã chủ động điều hành chính sách tiền tệ phối hợp chặt chẽ với các chính sách vĩ mô khác, đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, góp phần quan trọng vào thành công chung trong điều hành vĩ mô của Chính phủ.

thong-doc

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng

Thống đốc Lê Minh Hưng nhấn mạnh, điều hành chính sách tiền tệ để giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh là thành công lớn nhất của Ngân hàng Nhà nước. Lạm phát cũng được kiểm soát ở mức thấp, đặc biệt lạm phát cơ bản chỉ dao động từ 1,4%-2% là rất thấp.

Cùng với việc kiểm soát lạm phát ở mức thấp, NHNN đã điều hành đảm bảo không tăng lãi suất huy động để dẫn đến tăng lãi suất cho vay; kịp thời áp dụng các biện pháp cần thiết tránh để các tổ chức tín dụng (TCTD) chạy đua lãi suất huy động; chủ động điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành, chỉ đạo các TCTD chủ động cân đối khả năng tài chính để áp dụng lãi suất cho vay hợp lý.

Mặc dù lãi suất trên thị trường quốc tế chịu nhiều sức ép nhưng Việt Nam đã kiểm soát được, giảm lãi suất cho vay. NHNN đã yêu cầu các TCTD tiết giảm chi phí, đẩy mạnh xử lý nợ xấu để ổn định, giảm lãi suất huy động, từ đó có thể giảm lãi suất cho vay. Theo đó, mùa kinh doanh của doanh nghiệp đã đến, lãi suất ngân hàng đã giảm rõ rệt.

Năm 2019 các TCTD đã 2 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho vay vào thời điểm đầu năm và tháng 8/2019. Hiện lãi suất cho vay phổ biến ở mức 6-9%/năm đối với ngắn hạn; 9-11% đối với trung và dài hạn.

Về thị trường tỷ giá, ngoại tệ, Thống đốc cho biết, thời gian qua NHNN đã theo sát, dự báo được các biến động của thị trường tài chính quốc tế để có kịch bản cho thị trường tỷ giá trong nước. "Điều này đã làm tăng niềm tin của thị trường, giữ được ổn định tỷ giá, kiểm soát được lạm phát, hỗ trợ xuất khẩu".

Thống đốc cũng cho biết, dự trữ ngoại hối năm 2019 đã tăng kỷ lục, lên mức gấp 2,5 lần so với cuối năm 2015. Đây được coi là tấm đệm cho nền kinh tế chống lại những cú sốc từ bên ngoài.

Nhờ những chính sách tiền tệ linh hoạt của NHNN thời gian qua, các tổ chức quốc tế đã có những đánh giá tích cực về triển vọng kinh tế Việt Nam. Cụ thể, S&P lần đầu tiên sau 9 năm đã điều chỉnh nâng xếp hạng tín nhiệm Việt Nam từ BB- lên BB; Fitch nâng triển vọng từ mức “Tích cực” sang “Ổn định” và tiếp tục duy trì mức xếp hạng BB.

Quỹ tiền tệ quốc tế IMF khi làm việc với Chính phủ cũng đã đánh giá cao các nỗ lực của NHNN trong việc điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là đã thành công trong việc ổn định tỷ giá và tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Ngân hàng Thế giới cũng đánh giá cao những nỗ lực nhằm cải thiện chỉ số tiếp cận tín dụng của Việt Nam, ghi nhận và nâng 7 bậc so với năm 2018 (Việt Nam xếp hạng 25/190, đứng thứ 2 ASEAN).

Nói về định hướng của NHNN trong thời gian tới, Thống đốc cho biết, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo mở rộng tín dụng theo hướng tăng hiệu quả, tập trung rà soát, mở rộng, đa dạng hóa các kênh tiếp cận tín dụng. Cùng với đó NHNN sẽ triển khai nhiều gói vay ưu đãi.

Chia sẻ thêm về hoạt động tín dụng của ngân hàng thời gian qua, Thống đốc cho biết, thực tế nguồn vốn trung và dài hạn vẫn phải dựa chủ yếu vào ngân hàng, trong khi đó vốn huy động lại đa số là ngắn hạn (chiếm gần 80% tổng huy động), còn 50% tổng dư nợ là trung và dài hạn.

Quy mô tín dụng vào khoảng trên 8 triệu tỷ đồng, tăng 11,36%. Trong đó dư nợ đối với khối doanh nghiệp đạt khoảng 4,2 triệu tỷ đồng, chiếm 53,03% tổng dư nợ nền kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân đạt 3,4 triệu tỷ đồng, tăng 8,99%, chiếm 43,46% tổng dư nợ nền kinh tế; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 327 ngàn tỷ đồng, tăng 9,51%, chiếm 4,08%; Doanh nghiệp nhà nước đạt 439 ngàn tỷ đồng, giảm 6,68%, chiếm 5,49%).

Nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, NHNN đã chỉ đạo triển khai mạnh mẽ, toàn diện nhiệm vụ cải cách hành chính, thủ tục hành chính, trong đó các TCTD đã có nhiều hình thức cải tiến, đổi mới quy trình cho vay, đơn giản hóa thủ tục, giảm bớt phiền hà cho doanh nghiệp khi vay vốn; nâng cao hiệu quả thẩm định để tăng cường cho vay tín chấp, trong đó một số TCTD đã xây dựng thành công các mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ, tối ưu hóa việc phân tích, đánh giá, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp trước khi ra quyết định cho vay.

Thống đốc khẳng định, hệ thống các TCTD hiện nay có đầy đủ nguồn vốn và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp gặp khó khăn luôn được các TCTD đồng hành, chia sẻ thông qua các biện pháp như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay...

Ghi nhận ý kiến của các doanh nghiệp liên quan tới hoạt động ngân hàng, Thống đốc cho biết, NHNN ghi nhận các ý kiến của doanh nghiệp và sẽ đưa ra phương án xử lý, giải đáp kịp thời.

Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục điều hành lãi suất, tỷ giá ổn định, linh hoạt, phù hợp với cân đối vĩ mô và diễn biến thị trường; mở động tín dụng hiệu quả, hướng dòng vốn vào sản xuất kinh doanh; tập trung triển khai có hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ