Doanh nghiệp dệt may thích ứng nhanh, tìm hướng đi phù hợp

Nhu cầu tiêu thụ toàn cầu phục hồi, việc chuyển dịch đơn đặt hàng gia tăng và sự chủ động của các doanh nghiệp đang tác động tích cực đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu dệt may.
NGUYỄN QUỲNH
24, Tháng 04, 2021 | 08:46

Nhu cầu tiêu thụ toàn cầu phục hồi, việc chuyển dịch đơn đặt hàng gia tăng và sự chủ động của các doanh nghiệp đang tác động tích cực đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu dệt may.

Từ đầu năm đến nay, thị trường dệt may thế giới đã dần sôi động trở lại và ngành dệt may Việt Nam cũng có nhiều tín hiệu khởi sắc hơn so với cùng kỳ năm trước. Số liệu từ Bộ Công Thương cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt và may mặc quý I ước đạt 7,2 tỷ USD, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước; kim ngạch xuất khẩu xơ, sợi dệt các loại tăng 31%; kim ngạch xuất khẩu vải mành, vải kỹ thuật khác tăng 8,8%.

Doanh nghiệp tìm hướng đi phù hợp

Lãnh đạo Tổng Công ty Đức Giang - CTCP (Dugarco) cho biết, trong bối cảnh thị trường có nhiều diễn biến khó lường, dịch bệnh Covid-19 chưa có hồi kết, Dugarco đã định hướng chiến lược hoạt động cho năm 2021 theo hướng tập trung nguồn lực cho công tác nghiên cứu và phát triển (R&D), coi đây là xương sống cho xúc tiến thương mại và triển khai kế hoạch.

1

Nhiều DN dệt may tiếp tục đầu tư vào thiết bị, công nghệ đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới. (Ảnh minh họa)

Trong năm 2021, Dugarco phấn đấu đạt mức doanh thu 2.308 tỷ đồng, xuất khẩu 72,2 triệu USD, lợi nhuận đạt 140% so với năm 2020. DN cũng xác định giảm gia công; đưa tỉ trọng hàng nội địa lên 30% tổng doanh thu, chú trọng nâng cao chất lượng hàng nội địa ngang bằng hoặc thậm chí cao hơn hàng xuất khẩu.

“Trong bối cảnh tổng cầu thế giới vẫn chưa quay lại mức trước đại dịch và dịch bệnh vẫn tiếp tục gây ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng, hướng đi của Dugarco vẫn tập trung khai thác thị trường nội địa, thông qua nền tảng thương mại điện tử. Đây được kì vọng sẽ đem lại thành công mới cho DN trong thời gian tới”, lãnh đạo Dugarco cho hay.

Ông Thân Đức Việt, Tổng Giám đốc Tổng Công ty May 10 cũng cho hay, trong quý I/2021 lượng đơn hàng đã tăng. Nhiều đơn đơn hàng về sản phẩm jacket, quần âu, sơ mi đã có đủ năng lực sản xuất tới tháng 8/2021. Riêng mặt hàng veston - mặt hàng chủ lực của May 10 vẫn chưa có đủ đơn hàng để đáp ứng đủ năng lực sản xuất hiện có của May 10 nên chỉ đạt 50% năng lực.

“Do phải chuyển đổi sản xuất mặt hàng khác thay thế, như dệt kim, hàng thường phục như quần, váy, jacket, quần áo trẻ em... để bù đắp sự thiếu hụt của hàng trang phục truyền thống của May 10 như sơ mi, veston, quần âu, nên ảnh hưởng rất lớn tới năng suất và doanh thu. Mặt khác, lượng hàng quý I/2021 nhiều nhưng rất khó tuyển bổ sung được thêm lao động để hoàn thành các đơn hàng và mục tiêu doanh thu”, ông Việt cho biết.

Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam đánh giá, nhu cầu tiêu thụ đang bắt đầu phục hồi trở lại đã tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu. DN dệt may thích ứng khá nhanh thông qua các giải pháp đa dạng hóa dòng hàng, thị trường, cũng như thích ứng được với nền tảng cơ chế mua bán và thanh toán theo bối cảnh mới, khác hoàn toàn cách mua bán truyền thống trước đây.

“Việc DN đã và đang tiếp tục đầu tư vào thiết bị, công nghệ tự động hóa cũng là một trong những yếu tố góp phần tạo nền tảng để ngành dệt may chịu được những áp lực của thị trường về chất lượng, thời gian giao hàng nhanh”, ông Giang nhấn mạnh.

Chú trọng thị trường và sản phẩm chủ lực

Nhận định khả quan về tiềm năng thị trường cũng như dự báo nhiều yếu tố tác động đến tăng trưởng của ngành dệt may, ông Cao Hữu Hiếu, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cho rằng, thị trường dệt may thế giới đang hồi phục bởi có sự tác động bởi các gói hỗ trợ kinh tế, khống chế dịch bệnh cũng như sự chuyển dịch đơn hàng.

“Thị trường dệt may toàn cầu có sự hồi phục bởi các gói hỗ trợ về kinh tế và các thông tin tích cực về vaccine; nhu cầu các mặt hàng nói chung và may mặc nói riêng đã phần nào hồi phục trở lại. Việc chuyển dịch đơn hàng từ các nước quốc gia cạnh tranh, đặc biệt từ Myanmar giúp cho Việt Nam đón nhận một lượng đơn hàng đột biến ngay từ quý I”, ông Cao Hữu Hiếu phân tích.

1

Nhu cầu tiêu thụ đang bắt đầu phục hồi trở lại đã tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu dệt may. (Ảnh minh họa)

Nhận thấy xu hướng tiêu dùng các mặt hàng may mặc trên thế giới đã có nhiều thay đổi sau đại dịch, ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐQT Vinatex chỉ ra, trong năm 2020, các mặt hàng veston, sơ mi, quần âu suy giảm mạnh nhất (veston giảm 70%, quần âu giảm 45%, áo sơ mi giảm hơn 30%). Trong năm 2021, các mặt hàng kể trên có sự phục hồi nhất định so với năm 2020 nhưng vẫn còn ở mức thấp so với năng lực sản xuất của ngành đã đạt được trước đó, dù đây là những mặt hàng thế mạnh của Việt Nam.

“Việc tăng trưởng sản xuất các mặt hàng thế mạnh này trong năm nay vẫn chưa rõ ràng, vì còn phụ thuộc rất nhiều vào cách thức đi lại, làm việc có trở về như trước khi có đại dịch hay không. Nếu thế giới vẫn duy trì cách thức làm việc ở nhà thì các mặt hàng chủ lực xuất khẩu vẫn không thể phục hồi như cũ. Nhưng có thể chắc chắn rằng, trong 6 tháng đầu năm 2021 thị trường sẽ tiêu thụ chính yếu các mặt hàng cơ bản, giá cả tương đối rẻ”, ông Lê Tiến Trường lưu ý.

Dù tình hình sản xuất, xuất khẩu dệt may trong những tháng đầu năm đã khởi sắc rõ rệt, song ông Vũ Đức Giang nhìn nhận, dệt may Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều thách thức không nhỏ. Vấn đề điển hình được ông Giang nhắc tới là câu chuyện chi phí logistics của Việt Nam đang rất cao, đặc biệt là chi phí thuê container rỗng.

Thời gian qua, theo phản ánh của nhiều DN, giá thuê container hiện đã tăng gấp 5 lần so với năm ngoái. Đó là chưa kể, hàng loạt đơn hàng sản xuất ra gần đây vì thiếu container xuất khẩu, dẫn tới ách tắc lưu thông, chậm tiến độ giao hàng cho đối tác gây ra nhiều thiệt hại cho các DN ngành dệt may.

(Theo VOV)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25153.00 25453.00
EUR 26686.00 26793.00 27986.00
GBP 31147.00 31335.00 32307.00
HKD 3181.00 3194.00 3299.00
CHF 27353.00 27463.00 28316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16377.00 16443.00 16944.00
SGD 18396.00 18470.00 19019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18223.00 18296.00 18836.00
NZD   14893.00 15395.00
KRW   17.76 19.41
DKK   3584.00 3716.00
SEK   2293.00 2381.00
NOK   2266.00 2355.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ