Đằng sau khoản lãi kỷ lục của Eximbank

Nhàđầutư
Chặng đường trở lại Top 10 nhà băng hàng đầu như cam kết của lãnh đạo Eximbank còn rất dài, với thực trạng tài chính và cấu trúc thượng tầng hiện nay của Ngân hàng.
NGHI ĐIỀN
31, Tháng 07, 2018 | 16:53

Nhàđầutư
Chặng đường trở lại Top 10 nhà băng hàng đầu như cam kết của lãnh đạo Eximbank còn rất dài, với thực trạng tài chính và cấu trúc thượng tầng hiện nay của Ngân hàng.

eximbank

Một nhóm cổ đông lớn đang muốn rút khỏi Eximbank với lý do "mệt mỏi quá rồi"

Nửa đầu năm, Eximbank lãi sau thuế 737 tỷ đồng, tăng 125% so với năm ngoái và là mức cao nhất từ năm 2013 đến nay. Đây là kết quả rất đáng khích lệ của Eximbank - với không ít kỳ vọng nhà băng tư nhân hàng đầu một thời đang nỗ lực tìm lại 'ánh hào quang' xưa.

Dù vậy, chặng đường này sẽ còn rất nhiều gian nan, với thực trạng tài chính và cấu trúc thượng tầng hiện nay của Eximbank. Bản thân các kết quả vừa nêu cũng cần phải soi xét kỹ hơn.

Trong 6 tháng đầu năm, ảnh hưởng từ hai vụ mất tiền khách hàng tại TP.HCM và Nghệ An thể hiện rõ trên bảng cân đối kế toán của Eximbank, với số dư huy động và tín dụng đều suy giảm, lần lượt với biên độ 3% và 0,7%. Dù không quá mạnh, nhưng trong bối cảnh tăng trưởng chung của hệ thống các ngân hàng thương mại, sự đi xuống của hai chỉ tiêu quan trọng bậc nhất cho thấy uy tín của Eximbank bị ảnh hưởng tiêu cực sau các vụ việc vừa qua. Mà uy tín, trong giới buôn tiền, là thứ tài sản quan trọng bậc nhất.

Báo cáo tài chính cho thấy đóng góp phần lớn vào kết quả kinh doanh của Eximbank là khoản lãi từ thoái vốn khỏi Sacombank, mang về 521 tỷ đồng. Nếu loại trừ, lãi trước thuế của Eximbank co về còn chừng 400 tỷ đồng, xấp xỉ cùng kỳ năm ngoái (397 tỷ đồng), có nghĩa rằng hiệu quả kinh doanh của Eximbank chưa được cải thiện đáng kể.

Bên cạnh đó, ngoài thoái vốn, mức lãi kỷ lục của Eximbank còn nhờ vào một số biện pháp kỹ thuật khác, như giảm dự phòng rủi ro tín dụng hay chưa trích lập nợ xấu bán cho VAMC. Nửa đầu năm, Eximbank mới trích lập khoảng 19 tỷ đồng cho khoản trái phiếu đặc biệt hơn 5.800 tỷ đồng. Nếu thực hiện dự phòng đúng quy định với tỷ lệ 10% mỗi năm, áp lực cho những tháng còn lại của Eximbank sẽ là rất lớn.

Tại Đại hội đồng cổ đông thường niên cuối tháng Tư vừa qua, lãnh đạo Eximbank cho biết nhà băng này từng xếp trong Top 5, Top 6 các ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam, nhưng nhanh chóng rơi về 15 giai đoạn 2015-2016, trước khi chặn được đà suy giảm và cải thiện về vị trí thứ 13 trong năm 2017 xét về quy mô. Tới năm 2020, Eximbank dự kiến sẽ trở lại top 10 với tốc độ tăng trưởng tài sản bình quân mỗi năm 20%.

Trái ngược với sự lạc quan của các lãnh đạo, nhiều cổ đông đã gay gắt chất vấn về kết quả kinh doanh nghèo nàn, liên tiếp mất tiền khách hàng và nhiều năm liền không có cổ tức. Có người còn đòi Tổng giám đốc Lê Văn Quyết từ chức.

Về vấn đề này, ông Lê Văn Quyết cho biết hợp đồng làm việc với thời hạn 2 năm đã hết trước đó và ông sẵn sàng nghỉ nếu Hội đồng quản trị tìm được người thay thế.

Theo nguồn tin của Nhadautu.vn, nhóm cổ đông nắm quyền kiểm soát HĐQT Eximbank muốn thay thế ông Quyết bằng một Phó TGĐ vừa được bổ nhiệm. Tuy nhiên việc này chưa được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Do vậy, Eximbank phải gia hạn hợp đồng thêm một năm với ông Lê Văn Quyết.

Suốt nhiều năm qua, 'cuộc chiến' tranh giành ảnh hưởng giữa các nhóm cổ đông lớn khiến Eximbank luôn trong tình trạng bất ổn, biến động, dần đánh mất vị thế hàng đầu. Cho tới hiện tại, không ít người vẫn tiếc nuối cho sự thoái trào của nhà băng này.

Dù vậy, nhìn chung Eximbank vẫn là một ngân hàng có chất lượng xét về truyền thống, khách hàng, nhân sự và quan trọng nhất hệ thống chi nhánh, phòng giao dịch rộng khắp.

Để vực dậy, Eximbank cần sự thống nhất giữa các nhóm cổ đông và một Hội đồng quản trị có trình độ, chất lượng, đồng lòng đưa Ngân hàng đi lên. Điều này xem ra Eximbank chưa có được.

Ở diễn biến mới nhất, một nhóm cổ đông lớn đang muốn rút khỏi Eximbank, với lý do "đã quá mệt mỏi rồi".

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ