Cổ phiếu bluechip kéo VN-Index tăng mạnh nhất 4 tháng

Nhàđầutư
Các đơn vị phân tích đánh giá cao triển vọng dài hạn của thị trường chứng khoán Việt Nam, trong bối cảnh động thái phát hành tín phiếu của NHNN không phải là dấu hiệu đảo chiều chính sách tiền tệ.
NGÂN HÀ
13, Tháng 03, 2024 | 16:01

Nhàđầutư
Các đơn vị phân tích đánh giá cao triển vọng dài hạn của thị trường chứng khoán Việt Nam, trong bối cảnh động thái phát hành tín phiếu của NHNN không phải là dấu hiệu đảo chiều chính sách tiền tệ.

Empty

VN-Index tiến lại vùng 1.270 điểm sau 2 phiên phục hồi. Ảnh: Trọng Hiếu

Thị trường chứng khoán phiên ngày 13/3 chứng kiến sự phục hồi ấn tượng. VN-Index tăng 25,5 điểm lên 1.270,5 điểm với sự khởi sắc ở hầu hết các nhóm ngành chứng khoán, bất động sản, ngân hàng, thép... Đây là mức tăng mạnh nhất của VN-Index trong vòng 4 tháng qua.

HNX-Index tăng 4,17 điểm lên 238,2 điểm và UPCoM-Index tăng 0,76 điểm lên 91,53 điểm.

Trong đó, nhóm chứng khoán nổi bật nhất, nhiều cổ phiếu tăng trần như VCI, VDS, VIX, ORS, IVS; tăng trên 4% như VND, SSI, SHS, MBS…

Động lực chính cho đà tăng mạnh của VN-Index trong phiên 13/3 đến các cổ phiếu bluechip. 29/30 mã chứng khoán thuộc VN30 chìm trong sắc xanh, trừ VJC đỏ. VN30-Index tăng 30 điểm lên 1.272 điểm, tương đương tăng 2,42% - mức tăng mạnh nhất tính từ phiên 9/11/2023.

Thanh khoản thị trường cũng có sự cải thiện đáng kể lên 29.396 tỷ đồng, riêng sàn HoSE là 26.292 tỷ đồng, tăng 30% so với phiên liền trước.

Như vậy, sau 2 phiên tăng điểm, thị trường chứng khoán đã lấy lại toàn bộ số điểm giảm của 2 phiên điều chỉnh trước đó và chinh phục thành công ngưỡng 1.270. VN-Index đã nhiều lần áp sáp ngưỡng này nhưng đều phải quay đầu giảm trong những lần trước. 

Theo các chuyên gia, thị trường chứng khoán gặp áp lực điều chỉnh gần đây do tâm lý chốt lời của nhà đầu tư trước đà tăng giá kéo dài hơn 4 tháng qua. Đồng thời, giá vàng tăng nóng, tỷ giá tăng và Ngân hàng Nhà nước hút tiền trở về thông qua nghiệp vụ phát hành tín phiếu làm nhiều nhà đầu tư lo ngại sự thay đổi chính sách tiền tệ.

MSVN nhận định hành động phát hành tín phiếu của NHNN chỉ là động thái đón đầu hạ áp lực tỷ giá. Giảm cung tiền VND trên hệ thống ngân hàng sẽ làm tăng lãi suất VND và giảm chênh lệch lãi suất VND-USD, giảm đầu cơ USD.

Tuy nhiên, việc bán tín phiếu không phải dấu hiệu thay đổi chính sách tiền tệ. Thanh khoản hệ thống ngân hàng đang dồi dào và biến động lãi suất thị trường liên ngân hàng ít có tác động đến lãi suất thị trường một. Trong ngắn hạn, mức mất giá 1,7% của VND vẫn thấp hơn mức mất giá trung bình khoảng 3% trong lịch sử và mức cao nhất 4,3% trong năm 2023.

VND mất giá xuất phát từ Fed duy trì mức lãi suất cao, căng thẳng địa chính trị trên thế giới, nhu cầu xuất nhập khẩu trong nước gia tăng và giá vàng, bitcoin lập đỉnh lịch sử. MSVN cho rằng những áp lực này sẽ sớm hạ nhiệt.

Nguyên nhân là Fed Funds tương lai đang phản ánh đợt cắt lãi suất đầu tiên 25 bps trong tháng 6, Fed “dot plot” dự phóng tổng mức cắt giảm lãi suất là 75 bps cho cả năm 2024. Bên cạnh đó, tác động tới chuỗi cung ứng của giao tranh Israel – Hamas ở mức vừa phải.

Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu trong nước tăng cho thấy nền kinh tế đang tăng tốc dần. Sự phục hồi kinh tế và thặng dư cán cân vãng lai sẽ là yếu tố dẫn dắt đồng VND phục hồi so với USD trong năm nay.

Do đó, MSVN nhận định tỷ giá sẽ nằm trong tầm kiểm soát năm nay, NHNN sẽ duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng, hỗ trợ tăng trưởng.

Đồng quan điểm, Dragon Capital cho rằng về dài hạn, chính sách tiền tệ của Việt Nam vẫn theo chiều hướng nới lỏng, ưu tiên giảm lãi suất cho vay doanh nghiệp để phục hồi kinh tế. Ngay cả sau đợt phát hành tín phiếu hút tiền năm ngoái, lãi suất tiếp tục giảm và thanh khoản hệ thống ngân hàng vẫn rất dồi dào.

Đối với thị trường chứng khoán, trong ngắn hạn, VN-Index có thể gặp các biến động đến từ áp lực chốt lời, hoặc tâm lý phòng vệ của nhà đầu tư sau một giai đoạn tăng khá nhanh kể từ đầu năm. Tuy nhiên, Dragon Capital duy trì quan điểm tích cực về thị trường chứng khoán trong dài hạn, được hỗ trợ từ vĩ mô. Lợi nhuận doanh nghiệp được kỳ vọng tăng trưởng bình quân 15-18% với nhóm 80 công ty niêm yết lớn nhất.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ