Các ngân hàng đầu tư 274 nghìn tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp

Nhàđầutư
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, tính đến cuối năm 2021, có 41 TCTD tham gia đầu tư TPDN với tổng dư nợ là 274.000 tỷ đồng, chiếm 2,63% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống.
ĐÌNH VŨ
22, Tháng 04, 2022 | 20:30

Nhàđầutư
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, tính đến cuối năm 2021, có 41 TCTD tham gia đầu tư TPDN với tổng dư nợ là 274.000 tỷ đồng, chiếm 2,63% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống.

nguyen-thi-hong-nhnn

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng tham luận tại Hội nghị phát triển thị trường vốn. Ảnh: VGP

Chiều 22/4, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Trình bày tại Hội nghị, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng khẳng định, thị trường vốn và thị trường tiền tệ là hai phân khúc quan trọng của thị trường tài chính. Trong đó tín dụng ngân hàng là kênh ngắn hạn.

Khi các tổ chức tín dụng (TCTD) tham gia vào thị trường vốn, ngoài việc phải tuân thủ các quy định pháp luật về lĩnh vực chứng khoán, các TCTD còn phải tuân thủ các quy định pháp luật chuyên ngành trong lĩnh vực ngân hàng nhằm bảo đảm an toàn hoạt động của các TCTD.

Theo số liệu của UBCKNN, các TCTD hiện là nhà đầu tư trái phiếu chính phủ (TPCP) lớn thứ 2 sau Bảo hiểm xã hội. Đến cuối năm 2021 tổng quy mô TPCP được hệ thống TCTD năm giữ khoảng 793.000 tỷ đồng, chiếm 41,86% tổng giá trị TPCP đang được giao dịch trên thị trường.

Mặc dù việc đầu tư, nắm giữ TPCP hầu như không phát sinh rủi ro tín dụng, tuy nhiên do huy động tiền gửi của hệ thống các TCTD chủ yếu là ngắn hạn, trong khi TPCP lại có kỳ hạn dài nên cũng tiềm ẩn rủi ro, nhất là rủi ro chênh lệch kỳ hạn. 

Dưới góc độ TCTD là nhà đầu tư đối với trái phiếu doanh nghiệp (TPDN). Tính đến cuối năm 2021, có 41 TCTD tham gia với tổng dư nợ TPDN là 274.000 tỷ đồng, chiếm 2,63% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống, qua đó, góp phần gia tăng thanh khoản, thúc đẩy thị trường TPDN phát triển. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn hoạt động các TCTD, đáp ứng yêu cầu chi trả theo người dân, NHNN đã kiểm soát rất chặt chẽ việc TCTD mua TPDN thông qua nhiều quy định.

Cụ thể, hoạt động mua, đầu tư TPDN được tính vào dư nợ tín dụng của một khách hàng khi xác định giới hạn tín dụng theo luật các TCTD…;

Quy định TCTD mua, bán TPDN phải có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chỉ được mua TPDN khi TCTD có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%;

TCTD chỉ được mua TPDN khi phương án phát hành, phương án sử dụng vốn khả thi, doanh nghiệp phát hành trái phiếu có khả năng tài chính để đảm bảo thanh toán đủ gốc và lãi, doanh nghiệp phát hành không có nợ xấu tại các TCTD trong vòng 12 tháng gần nhất.

TCTD không được mua TPDN phát hành có mục đích cơ cấu lại các khoản nợ của chính doanh nghiệp phát hành hoặc có mục đích để góp vốn, mua cổ phần tại doanh nghiệp khác, có mục đích để tăng quy mô vốn hoạt động...

NHNN thường xuyên rà soát, sửa đổi bổ sung quy định về các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD; thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình đầu tư TPDN của TCTD; từ đó chỉ đạo, cảnh báo, yêu cầu các TCTD kiểm soát rủi ro trong hoạt động đầu tư TPDN. NHNN phối hợp với Bộ Tài chính kiểm tra thực trạng phát hành của thị trường TPDN trong năm 2019 và 2020.

Dưới góc độ TCTD là nhà đầu tư gián tiếp đối với cổ phiếu. Luật TCTD quy định TCTD không được trực tiếp đầu tư cổ phiếu, nhưng có thể đầu tư cổ phiếu thông qua thành lập hoặc mua lại các công ty con, công ty liên kết để thực hiện hoạt động mua, bán cổ phiếu.

Hiện tại có 10 NHTM có công ty chứng khoán để thực hiện hoạt động mua, bán cổ phiếu trên thị trường. Ngoài ra, NHNN cũng cấp phép cho một số TCTD tham gia thị trường chứng khoán phái sinh theo quy định của Luật Chứng khoán.

Theo Thống đốc, một số vấn đề chính cần quan tâm với thị trường TPDN hiện tại gồm:

Thị trường TPDN của Việt Nam có quy mô còn nhỏ so với các nước trong khu vực. Bởi vậy, doanh nghiệp dựa rất nhiều vào vốn tín dụng ngân hàng, kể cả vốn trung dài hạn (năm 2021, quy mô tín dụng đạt 124,3% GDP). Thực trạng này đã và đang tạo sức ép và rủi ro lớn cho hệ thống TCTD khi nguồn vốn huy động chủ yếu là ngắn hạn (tỷ lệ huy động vốn ngắn hạn chiếm khoảng 82% tổng huy động vốn). Do đó, việc thị trường TPDN phát triển minh bạch, hiệu quả giúp cân bằng, hài hòa theo hướng vốn ngắn hạn, doanh nghiệp sẽ dựa vào hệ thống ngân hàng, vốn trung dài hạn dựa vào thị trường vốn.

Các nhà đầu tư TPDN như các doanh nghiệp bảo hiểm, quỹ đầu tư chứng khoán chưa khẳng định vai trò chủ đạo trên thị trường; hệ thống quỹ hưu trí tự nguyện, các quỹ tương hỗ chưa phát triển, sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường TPDN còn hạn chế.

Nhà đầu tư cá nhân có xu hướng gia tăng mua, nắm giữ TPDN nhưng khả năng phân tích, đánh giá và quản trị rủi ro khi mua TPDN, đặc biệt trong bối cảnh thị trường thiếu vắng các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín nên cũng hạn chế đáng kể việc đánh giá và ra quyết định của các nhà đầu tư.

Trong điều kiện thị trường hiện nay, hầu hết TPDN chưa được niêm yết, phát hành riêng lẻ, nhà đầu tư khó nắm bắt thông tin, khả năng thanh khoản thấp, giao dịch trên thị trường thứ cấp còn hạn chế.

Bên cạnh đó, chưa có thị trường TPDN chuyên biệt nên khi phát sinh nhu cầu mua, bán TPDN trên thị trường thứ cấp nhà đầu tư và nhà phát hành phải chào mua, chào bán tới từng tổ chức, cá nhân.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ