Bloomberg: Đại dịch COVID-19 khiến giá thực phẩm tăng nhanh hơn thu nhập

Khi đại dịch COVID-19 tàn phá tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, lo ngại về nạn đói và suy dinh dưỡng đang gia tăng trên khắp thế giới.
PHƯƠNG LINH
02, Tháng 03, 2021 | 16:18

Khi đại dịch COVID-19 tàn phá tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, lo ngại về nạn đói và suy dinh dưỡng đang gia tăng trên khắp thế giới.

Tại Indonesia, giá đậu phụ đắt hơn 30% so với hồi tháng 12/2020. Tại Brazil, giá đậu đen tăng 54% so với tháng 1/2019. Trong khi đó, giá đường trắng Nga tăng 61% so với cùng kỳ năm ngoái.

Các thị trường mới nổi đang bị ảnh hưởng nặng nề khi chi phí nguyên liệu thô tăng chóng mặt. Giá các mặt hàng như dầu mỏ, đồng đến ngũ cốc đều tăng nhanh hơn nhiều so với dự đoán. Tuy nhiên, người tiêu dùng tại Hoa Kỳ, Canada và châu Âu cũng không "miễn nhiễm" bởi chi phí vận chuyển và đóng gói tăng.

"Mọi người sẽ phải làm quen với việc trả nhiều tiền hơn để mua thực phẩm. Mọi chuyện đang trở nên tồi tệ hơn", nhà phân tích Sylvain Charlebois - Giám đốc Phòng thí nghiệm phân tích thực phẩm nông nghiệp tại Đại học Dalhousie ở Canada nhận định.

800x-1 (2)

Các tình nguyện viên phân phát thực phẩm tươi cho các tài xế xe tải ở Manston, Vương quốc Anh. Ảnh: Bloomberg

Khi đại dịch tàn phá nền kinh tế toàn cầu, nó làm dấy lên những lo ngại mới về nạn đói và suy dinh dưỡng, ngay cả ở những quốc gia giàu có nhất thế giới. Tại Anh, tổ chức Trussell Trust đã phát hơn 2.600 gói thực phẩm/ngày cho trẻ em trong 6 tháng đầu dịch COVID-19.

Tại Hoa Kỳ, cuộc khủng hoảng Covid-19 đã đẩy thêm 13,2 triệu người vào tình trạng mất an ninh lương thực, tăng 35% so với năm 2018, theo ước tính từ Feeding America, tổ chức cứu trợ nạn đói lớn nhất quốc gia.

Tại Mỹ, NielsenIQ cho biết giá thực phẩm tại Mỹ tăng gần 3% trong năm ngoái, gần gấp đôi tỷ lệ lạm phát chung. Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, những người Mỹ nghèo nhất đã chi 36% thu nhập của họ cho thực phẩm và việc sa thải hàng loạt những công việc có mức lương thấp hơn như bán lẻ và vận tải đã làm gia tăng căng thẳng cho ngân sách hộ gia đình.

Trong khi đó, giá các loại thực phẩm thiết yếu như ngũ cốc, hạt hướng dương, đậu nành và đường tăng vọt, đẩy giá thực phẩm toàn cầu lên mức cao nhất trong 6 năm qua. Các chuyên gia nhận định do tác động của dịch COVID-19, thời tiết xấu và chuỗi cung ứng bị gián đoạn, giá thực phẩm sẽ khó giảm trong thời gian tới.

800x-1 (3)

Liên đoàn Thực phẩm và Đồ uống Anh ước tính các biện pháp kiểm soát biên giới khiến chi phí nhập khẩu thực phẩm tăng thêm 3 tỷ bảng (4,1 tỷ USD) mỗi năm. Ảnh: Bloomberg

Hiện tại, giá thực phẩm tại Anh không tăng, nhưng nhà kinh tế Liliana Danila tại Liên minh Bán lẻ Anh dự báo tình hình sẽ sớm thay đổi và gây sốc cho người tiêu dùng. Liên đoàn Thực phẩm và Đồ uống Anh ước tính các biện pháp kiểm soát biên giới khiến chi phí nhập khẩu thực phẩm tăng thêm 3 tỷ bảng (4,1 tỷ USD) mỗi năm.

Ngành công nghiệp thực phẩm ở Bắc Mỹ cũng đối mặt nhiều thách thức vì chi phí tăng cao. Tình trạng thiếu hụt container và tài xế vận chuyển khiến chi phí vận chuyển thực phẩm tăng. Giá dầu tăng cũng đẩy chi phí đóng gói thực phẩm.

800x-1 (4)

Tại Hoa Kỳ, tình trạng mất an ninh lương thực gia tăng đang đè nặng lên áp lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển trở lại. Ảnh: Getty

Với áp lực giá thực phẩm tăng vọt, chính phủ Nga và Argentina áp dụng hàng loạt biện pháp kiềm chế giá đối với một số mặt hàng chủ lực và tăng thuế đánh lên hàng xuất khẩu.

Ở một số nước giàu hơn, các chính phủ đang tập trung cải thiện nguồn cung thực phẩm hơn là kiểm soát giá cả. Pháp đang có kế hoạch tăng sản lượng các cây trồng giàu protein để cắt giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu đậu tương, trong khi Singapore gần đây đã trở thành quốc gia đầu tiên chấp thuận bán thịt được tạo ra trong phòng thí nghiệm khi nước này đẩy mạnh năng lực thực phẩm trong nước.

(Theo Bloomberg)

 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ