6 doanh nghiệp siêu khổng lồ, vốn hơn 100.000 tỷ ở Việt Nam

Nhàđầutư
Hiện tại ở Việt Nam đã có 6 doanh nghiệp đạt mức vốn điều lệ hơn 100.000 tỷ, bao gồm 3 tập đoàn kinh tế nhà nước, 2 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 1 doanh nghiệp mới được thành lập tại Hà Nội.
THANH HƯƠNG
26, Tháng 02, 2020 | 16:32

Nhàđầutư
Hiện tại ở Việt Nam đã có 6 doanh nghiệp đạt mức vốn điều lệ hơn 100.000 tỷ, bao gồm 3 tập đoàn kinh tế nhà nước, 2 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 1 doanh nghiệp mới được thành lập tại Hà Nội.

Theo Tổng cục Thống kê, trong tháng 1/2020 đã xuất hiện 1 doanh nghiệp thành lập mới tại Hà Nội với vốn đăng ký là 144.000 tỷ đồng. Mức vốn này lớn hơn cả Viettel và bằng 4 ngân hàng quốc doanh Big4 cộng lại.

Doanh nghiệp này có tên là CTCP Tư vấn đầu tư quốc tế và dịch vụ thương mại USC (USC Interco), thành lập ngày 17/1/2020, trụ sở chính được đặt tại Số 10, ngõ 234 đường Thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, TP. Hà Nội. Tên người đại diện theo pháp luật là Trần Gia Phong (sinh năm 1979).

Theo giấy đăng ký, công ty hoạt động chính trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, quyền sử dụng đất thuộc chủ sở hữu, chủ sử dụng hoặc đi thuê. Được biết, USC Interco có 3 cổ đông, gồm: Ông Trần Gia Phong và bà Kim Thị Phương mỗi người góp 30%, tương ứng 43.200 tỷ đồng cùng ông Nguyễn Hoàn Sơn góp 40%, tương ứng 57.600 tỷ đồng.

Dẫu vậy, đây không phải là doanh nghiệp duy nhất có số vốn khủng mà tính tới thời điểm hiện tại, cả nước còn có 5 doanh nghiệp khác có vốn điều lệ trên 100.000 tỷ đồng, gồm 3 tập đoàn kinh tế nhà nước là PetroVietnam, EVN và Viettel cùng 2 doanh nghiệp FDI là Formosa Hà Tĩnh và Vietnam Beverage - thành viên của tập đoàn đồ uống ThaiBev của Thái Lan.

lkm

Hiện tại ở Việt Nam đã có 6 doanh nghiệp đạt mức vốn điều lệ hơn 100.000 tỷ

Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam - PVN (281.500 tỷ đồng)

PVN gắn liền với lịch sử ngành dầu khí Việt Nam, tiền thân là Công ty Dầu khí Việt Nam, được Tổng cục dầu khí Việt Nam thành lập từ năm 1977 để thực hiện nhiệm vụ hợp tác với các công ty nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí tại Việt Nam.

Sau hơn 4 thập kỷ phát triển, PVN đã và đang đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, bên cạnh việc đảm bảo an ninh năng lượng cũng như chủ quyền quốc gia.

Về quy mô vốn điều lệ và cả tổng tài sản, tính đến cuối năm 2017, tổng tài sản hợp nhất của PVN là 784.604 tỷ đồng, vốn điều lệ 281.500 tỷ đồng.

Tập đoàn Điện lực Việt Nam - EVN (191.113 tỷ đồng)

Xếp thứ hai trong danh sách vốn khủng là Tập đoàn Điện lực (EVN).

EVN là nhà sản xuất điện chính của Việt Nam, chiếm khoảng 2/3 tổng công suất phát điện của cả nước, thông qua các thành viên như 5 Tổng công ty điện lực, 3 tổng công ty phát điện, nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình, Thuỷ điện Sơn La, Thuỷ điện Lai Châu...

Tới cuối năm 2018, tổng tài sản hợp nhất của EVN là 706.504 tỷ đồng, vốn điều lệ 194.088 tỷ đồng. Doanh thu thuần và lợi nhuận trước thuế lần lượt đạt 338.500 tỷ đồng và 9.076 tỷ đồng.

Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội - Viettel (131.957 tỷ đồng)

Viettel tiền thân là Tổng công ty Điện tử thiết bị thông tin (Sigelco) được thành lập từ năm 1989, trước khi đổi tên thành Công ty Viễn thông Quân đội trực thuộc Binh chủng Thông tin. 1 năm sau, cuối năm 2004, doanh nghiệp này chuyển đổi thành Tổng công ty Viễn thông Quân đội trực thuộc Bộ Quốc phòng.

Cũng từ thời điểm này, Viettel liên tục tăng trưởng, không những ở Việt Nam mà còn trên phạm vi thế giới. Năm 2017, Viettel đạt doanh thu 250.000 tỷ đồng, lợi nhuận 44.000 tỷ đồng, chiếm tới 60% tổng lợi nhuận của khối doanh nghiệp nhà nước. Cùng với đó, công ty này cũng mở rộng sự hiện diện tại 10 quốc gia ở châu Á, châu Mỹ, châu Phi, gồm Campuchia, Lào, Đông Timor, Haiti, Peru, Mozambique, Cameroon, Burundi, Tanzania và Myanmar.

Đầu năm 2018, Viettel được chuyển đổi sang mô hình tập đoàn, với tên gọi chính thức là Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội.

Kết thúc năm 2019, Viettel đạt tổng tổng doanh thu hơn 251.000 tỷ đồng, tăng trưởng 7,5% so với 2018, chiếm 50% doanh thu toàn ngành viễn thông.

Công ty TNHH Gang thép Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh - FHS (117.175 tỷ đồng)

FHS được thành lập tháng 6/2008, là chủ đầu tư Dự án Khu liên hợp gang thép và cảng Sơn Dương Formosa Vũng Áng Hà Tĩnh với tổng vốn đầu tư đăng ký giai đoạn 1 là 10,55 tỷ USD, gồm 3 hạng mục: Nhà máy gang thép công suất 7,5 triệu tấn/ năm, có thể nâng lên 22,5 triệu tấn/ năm; Cụm cảng Sơn Dương với 11 bến tàu, có thể nâng lên 32 bến tàu và Tổ hợp Nhà máy Nhiệt điện Formosa với tổng công suất 650 MW, gồm 5 tổ máy phát điện.

Tháng 5/2017, FHS đã cho vận hành lò cao số 1 và đến cuối năm 2017 đã sản xuất 1,62 triệu tấn gang lỏng, 1,6 triệu tấn thép và đã tiêu thụ 1,37 triệu tấn. Lò cao số 2 cũng đã đưa vào vận hành từ giữa năm 2018. 

Tháng 4/2018, FHS tiến hành tăng vốn từ 105.830 tỷ đồng lên 117.175 tỷ đồng, 100% vốn nước ngoài, trực thuộc Formosa Ha Tinh Limited, một pháp nhân được đăng ký ở Cayman Island và đóng trụ sở chính ở Đài Bắc, Đài Loan.

Công ty TNHH Vietnam Beverage (111.890 tỷ đồng)

Công ty TNHH Vietnam Beverage được thành lập ngày 6/10/2017 với cái tên ban đầu là Công ty TNHH Nga Sơn Beverage, là công ty con 100% vốn của CTCP Đầu tư Nga Sơn - một pháp nhân cũng chỉ mới được thành lập trước đó 10 ngày (27/9/2017, vốn điều lệ ban đầu 200 triệu đồng). 3 cổ đông sáng lập của Đầu tư Nga Sơn là bà Trần Kim Nga góp 99,9%, ông Nguyễn Hải Sơn và bà Trần Thị Thanh Hương.

Ngày 4/12/2017, cả 2 công ty trên đồng loạt đổi tên. Công ty TNHH Nga Sơn Beverage đổi thành Công ty TNHH Vietnam Beverage.

Cuối năm 2017, Vietnam Beverage đã trở thành công ty mẹ của Tổng công ty Bia - rượu - nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) sau phiên đấu giá thành công 53,6% phần vốn của Bộ Công thương trong Sabeco, với số tiền phải bỏ ra là 110.000 tỷ đồng.

Đến ngày 28/12/2018, công ty này đã điều chỉnh tăng vốn từ 682 tỷ đồng lên 111.890 tỷ đồng, tương đương mức tăng 164 lần. Trụ sở chính được đặt tại quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội.

Về kết quả kinh doanh của Sabeco, năm 2019, doanh thu thuần của Sabeco là 37.899 tỷ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước; lợi nhuận sau thuế đạt 5.370 tỷ đồng, là mức kỷ lục từ trước đến nay của doanh nghiệp này.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24610.00 24635.00 24955.00
EUR 26298.00 26404.00 27570.00
GBP 30644.00 30829.00 31779.00
HKD 3107.00 3119.00 3221.00
CHF 26852.00 26960.00 27797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15877.00 15941.00 16428.00
SGD 18049.00 18121.00 18658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17916.00 17988.00 18519.00
NZD   14606.00 15095.00
KRW   17.59 19.18
DKK   3531.00 3662.00
SEK   2251.00 2341.00
NOK   2251.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ