Vingroup, T&T vẫn chưa thể làm metro do chưa có cơ chế

Tập đoàn Vingroups và T&T đang nghiên cứu đầu tư một số dự án đường sắt đô thị tại Hà Nội theo hình thức đối tác công tư (PPP), tuy nhiên hai nhà đầu tư này phải chờ Chính phủ hoàn thiện cơ chế chính sách chung.
P.V
09, Tháng 07, 2019 | 17:07

Tập đoàn Vingroups và T&T đang nghiên cứu đầu tư một số dự án đường sắt đô thị tại Hà Nội theo hình thức đối tác công tư (PPP), tuy nhiên hai nhà đầu tư này phải chờ Chính phủ hoàn thiện cơ chế chính sách chung.

Tại phiên họp HĐND TP. Hà Nội sáng ngày 9/7, trả lời chất vấn về cơ chế, chính sách đầu tư dự án các tuyến đường sắt đô thị của thành phố, ông Nguyễn Mạnh Quyền - Giám đốc Sở KH&ĐT Hà Nội cho biết sau khi thành phố công bố danh mục kêu gọi đầu tư các dự án đường sắt theo hình thức PPP tại hai Hội nghị hợp tác phát triển năm 2017 và 2018 đối với 8 tuyến đường sắt trên địa bàn, đã có rất nhiều nhà đầu tư quan tâm. 

Tuy nhiên, trong quá trình cân đối nguồn lực, lãnh đạo Hà Nội đã thảo luận và chỉ đạo trước mắt sẽ tập trung vào 3 tuyến đường sắt: Tuyến số 2 đoạn Trần Hưng Đạo – Thượng Đình, Tuyến số 5 Văn Cao – Hồ Tây và Tuyến số 3 đoạn Nhổn - Trôi - Đan Phượng. Trong đó, riêng 2 tuyến đường sắt số 3 và số 5 do Tập đoàn Vingroup và T&T đề xuất đầu tư dự án này theo hình thức đối tác công tư (PPP).

nguyen manh quyenff

Giám đốc Sở KH&ĐT Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền trả lời chất vấn sáng 9/7.

Ông Quyền cũng cho biết, hiện liên ngành TP. Hà Nội đã báo cáo Chính phủ về việc đầu tư các dự án đường sắt đô thị này. Do liên quan đến một số cơ chế đặc thù, các nhà đầu tư đang hoàn thành nghiên cứu tiền khả thi để báo cáo Chính phủ, Quốc hội.

Tuy nhiên, liên quan đến hình thức PPP, Bộ Tài chính vừa có văn bản báo cáo Chính phủ cho phép tạm dừng việc triển khai các dự án theo hình thức này để tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách chung sau đó mới triển khai thực hiện. Do đó, TP. Hà Nội sẽ chờ Nghị định này được ban hành để xây dựng các cơ chế cũng như sớm triển khai 2 dự án đường sắt quan trọng này.

metro ha noi

Theo Quy hoạch giao thông vận tải thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội sẽ có 8 tuyến đường sắt đô thị với tổng chiều dài 284 km.

Theo Quy hoạch giao thông vận tải thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội sẽ có 8 tuyến đường sắt đô thị với tổng chiều dài 284 km.

Từ giữa năm 2016, sau khi công khai quy hoạch các tuyến đường sắt đô thị Hà Nội và kêu gọi các nhà đầu tư tham gia, đã có nhiều nhà đầu tư quan tâm nghiên cứu đầu tư. 

Có 5 nhà đầu tư trong nước và 2 nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư các dự án đường sắt đô thị, gồm Vingroup, Xuân Thành, Lũng Lô 5, Tân Hoàng Minh, Mosmetrotroy (Nga), liên danh Licogi - MIK, Lotte (Hàn Quốc).

Tuy nhiên, chỉ có Vingroup và T&T đăng ký xin triển khai thủ tục đề xuất dự án. Cả hai nhà đầu tư này đều đề xuất đầu tư dự án theo hình thức BT.

Trong đó, riêng Tập đoạn Vingroup đề xuất UBND TP Hà Nội cho phép tham gia nghiên cứu đầu tư các đoạn tuyến trong 5 tuyến đường sắt đô thị: Tuyến số 2: đoạn Nội Bài - Nam Thăng Long; Tuyến số 3: đoạn Ga Hà Nội - Hoàng Mai (Yên Sở) và đoạn Nhổn - Trôi - Sơn Tây; Tuyến số 5: đoạn Văn Cao - Vành đai 4 và đoạn Vành đai 4 - Hòa Lạc; Tuyến số 6: đoạn Nội Bài - Phú Diễn - Hà Đông - Ngọc Hồi; Tuyến số 8: đoạn Sơn Đồng - Mai Dịch và đoạn Mai Dịch - Vành đai 3 - Dương Xá. Còn T&T đề xuất đoạn tuyến số 4 (Mê Linh - Sài Đồng - Liên Hà, dài 54 km).

Cả hai nhà đầu tư này đều cam kết khi được giao nghiên cứu đề xuất dự án sẽ tự nguyện ứng vốn để triển khai; không yêu cầu được bồi hoàn lại kinh phí...

Đây cũng là lần thứ 2 Vingroup tham gia vào một dự án về giao thông tại Hà Nội. Trước đó, tháng 8/2015, UBND TP Hà Nội thống nhất chủ trương cho phép Vingroup ứng trước kinh phí 1.000 tỷ đồng (không tính lãi) để phục vụ dự án đường Vành đai 2 đoạn Vĩnh Tuy - Mai Động.

TỪ KHÓA: VingroupT&TMetro
Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24810.00 24830.00 25150.00
EUR 26278.00 26384.00 27554.00
GBP 30717.00 30902.00 31854.00
HKD 3125.00 3138.00 3240.00
CHF 26952.00 27060.00 27895.00
JPY 159.41 160.05 167.39
AUD 16033.00 16097.00 16586.00
SGD 18119.00 18192.00 18729.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 17923.00 17995.00 18523.00
NZD   14756.00 15248.00
KRW   17.51 19.08
DKK   3529.00 3658.00
SEK   2286.00 2374.00
NOK   2265.00 2354.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ