Thống đốc: Tỷ suất sinh lời của các ngân hàng không cao

Nhàđầutư
Trước băn khoăn của Đại biểu Quốc hội cho rằng, năm 2020-2021 cả nền kinh tế khó khăn nhưng ngành ngân hàng lại báo lãi khủng, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định lợi nhuận trên tổng số tài sản của các ngân hàng hiện tại không phải là lớn và cũng không cao khi so với doanh nghiệp ở các ngành khác.
ĐÌNH VŨ
09, Tháng 06, 2022 | 21:33

Nhàđầutư
Trước băn khoăn của Đại biểu Quốc hội cho rằng, năm 2020-2021 cả nền kinh tế khó khăn nhưng ngành ngân hàng lại báo lãi khủng, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định lợi nhuận trên tổng số tài sản của các ngân hàng hiện tại không phải là lớn và cũng không cao khi so với doanh nghiệp ở các ngành khác.

thong-doc-nguyen-thi-hong-9.6

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng trả lời chất vấn của Quốc hội. Ảnh: Quochoi.vn

Sáng 9/6, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng tiếp tục trả lời chất vấn trước Quốc hội.

Đại biểu Trần Văn Lâm đặt băn khoăn, hai năm qua kinh tế tăng trưởng thấp kỷ lục, nhiều doanh nghiệp đổ vỡ, rút khỏi thị trường; người dân lao đao vì dịch; nhiều khoản nợ ngân hàng đến hạn không trả được, nhưng hầu hết nhà băng vẫn lợi nhuận cao, chia lãi khủng?

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, theo kêu gọi từ NHNN, từ đầu năm 2020 đến nay, các TCTD đã đồng hành với doanh nghiệp và người dân bằng cách miễn giảm lãi với tổng số tiền lên đến 48.000 tỷ đồng. Ngoài ra, NHNN cũng đã cho phép các nhà băng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho doanh nghiệp và người dân. Nhiều doanh nghiệp có nợ xấu, lẽ ra không đủ điều kiện vay vốn nhưng bằng cách này, họ vẫn được giải ngân.

Trong 5 tháng đầu năm nay, ngành ngân hàng bơm vốn vào nền kinh tế với mức tăng trưởng tín dụng 8%. Mức này theo Thống đốc là cao, cho thấy cũng nhờ Thông tư tái cơ cấu mà các doanh nghiệp tiếp tục được vay và có khả năng phục hồi sau đại dịch.

Về vấn đề lợi nhuận cao của ngân hàng, Thống đốc mong muốn các đại biểu lưu ý tới tỷ suất sinh lời trên quy mô của các ngân hàng, thay vì chỉ nhìn vào con số lãi khủng hàng nghìn tỷ đồng.

Theo đó, các nhà băng được thành lập với mục tiêu kinh doanh vì lợi nhuận và có quy mô vốn, tài sản rất lớn. Đến cuối năm 2020, toàn hệ thống các TCTD có tổng tài sản là 14 triệu tỷ đồng, đến tháng 3/2022 lên đến hơn 16 triệu tỷ đồng, tín dụng là 12 triệu tỷ đồng. Tài sản của một TCTD, như NHTM nhà nước là khoảng 1,7 triệu tỷ đồng.

"Lợi nhuận mười mấy nghìn hay hai mươi nghìn tỷ đồng trên tổng số tài sản đó thì không phải là lớn. Tỷ suất sinh lời trên vốn của một số tổ chức tín dụng so với các doanh nghiệp ở các ngành khác không cao", Thống đốc nói.

Chia sẻ với ngành ngân hàng, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đánh giá điều hành chính sách tiền tệ vừa qua chủ động, linh hoạt và "không làm tăng lạm phát". Lạm phát tăng chủ yếu do tăng giá hàng hoá, trong đó có mặt hàng chủ yếu là xăng dầu.

Ví dụ, với 13 đợt tăng giá xăng dầu trong 5 tháng đầu năm, giá đắt thêm 7.300-7.900 đồng một lít, tức là 59,49% trong 5 tháng. Mức này đã tác động tới CPI chung tăng 1,8%.

Phó thủ tướng cho hay, tới đây Chính phủ tiếp tục chỉ đạo NHNN duy trì mặt bằng lãi suất hợp lý, tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định; dự trữ ngoại hối củng cố để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, nâng cao sức chống chịu nền kinh tế.

Trước áp lực giá hàng hoá tăng cao, xu hướng NHTW các nước tăng lãi suất, Chính phủ sẽ theo sát tình hình để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, hỗ trợ phục hồi kinh tế.

Cơ quan điều hành khuyến khích các ngân hàng giảm chi phí, giảm mặt bằng lãi suất cho vay; tăng trưởng tín dụng phù hợp để đủ vốn cho sản xuất, kinh doanh; tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Liên quan tới cho vay chứng khoán, bất động sản, trước quan điểm "siết" tín dụng vào các lĩnh vực này, Phó Thủ tướng cho rằng phải rà soát lại việc cho vay vừa qua có đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện? Nếu trước đây làm chưa đúng thì phải rà soát, điều chỉnh lại cho đúng, còn nếu làm đúng rồi thì tiếp tục cho vay.

"Với dự án, chương trình hiệu quả thì tiếp tục cho vay, cấp vốn, đảm bảo tín dụng cho nền kinh tế", Phó Thủ tướng nói.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ