Cấp thiết ban hành Danh mục phân loại xanh

Nhàđầutư
Tạp chí Nhà đầu tư với sự phối hợp của Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên môi trường - Bộ Tài nguyên & Môi trường tổ chức Hội thảo "Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phát triển tín dụng xanh, trái phiếu xanh: Vấn đề cấp bách".
NHÓM PHÓNG VIÊN
03, Tháng 04, 2024 | 06:00

Nhàđầutư
Tạp chí Nhà đầu tư với sự phối hợp của Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên môi trường - Bộ Tài nguyên & Môi trường tổ chức Hội thảo "Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phát triển tín dụng xanh, trái phiếu xanh: Vấn đề cấp bách".

Sự kiện được tổ chức vào sáng nay (3/4) tại Hội trường tầng 1, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 65 Văn Miếu, Đống Đa, Hà Nội.

Hội thảo có sự tham gia của lãnh đạo Bộ Tài nguyên & Môi trường, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các chuyên gia tài chính kinh tế, đại diện ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty niêm yết, đại diện các tổ chức quốc tế, tổ chức xếp hạng tín nhiệm và cơ quan truyền thông, báo chí.

Hội thảo được tường thuật trực tiếp trên Nhadautu.vn, Theinvestor.vn, kênh Youtube, Fanpage Facebook của Tạp chí Nhà đầu tư.

tin-dung-xanh

Tạp chí Nhà đầu tư với sự phối hợp của Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên môi trường - Bộ Tài nguyên & Môi trường tổ chức Hội thảo "Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phát triển tín dụng xanh, trái phiếu xanh: Vấn đề cấp bách". Ảnh: Trọng Hiếu.

Cấp thiết ban hành Danh mục xanh

Phát biểu khai mạc hội thảo, TS. Nguyễn Anh Tuấn, Tổng biên tập Tạp chí Nhà đầu tư/Nhadautu.vn cho hay, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững là chủ trương lớn và nhất quán của Đảng và Nhà nước.

Mới đây, tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam thường niên (VBF 2024), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính một lần nữa tái khẳng định: Tăng trưởng xanh là một trong hai yếu tố cốt lõi của quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và phát triển nhanh, bền vững.

Đến nay, Việt Nam đã ban hành nhiều chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về chuyển đổi xanh. Để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng xanh, Việt Nam cần nguồn lực rất lớn, theo ước tính của ADB khoảng 368 tỷ USD cho cả giai đoạn đến 2040, tương đương 20 tỷ USD mỗi năm.  Trên thế giới và khu vực, thị trường tín dụng xanh và trái phiếu xanh đã phát triển nhanh trong những năm gần đây.

Riêng khu vực ASEAN + 3, theo báo cáo của ADB, thị trường trái phiếu bền vững đạt quy mô gần 800 tỷ USD năm 2023, gấp hơn 7 lần so với 2017. Tại Việt Nam, từ năm 2017 đến nay, thị trường tín dụng xanh đã có tốc độ phát triển hơn 20%/năm. Theo Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2019-2023, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh.

Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh của Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và với nhu cầu huy động vốn cho chuyển đổi xanh. Tín dụng xanh mới chiếm khoảng 4,4% tổng dự nợ toàn nền kinh tế; con số 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh phát hành trong 5 năm qua vẫn còn rất nhỏ bé so với nhu cầu vốn khoảng 20 tỷ USD trung bình mỗi năm để thực hiện các mục tiêu chuyển đổi xanh.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, các ngân hàng và doanh nghiệp, một trong những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh là khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện, nhất là còn thiếu các quy định, tiêu chí môi trường, Danh mục phân loại xanh ở cấp quốc gia.

Tại Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, Chính phủ đã giao Bộ TN&MT chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang bộ tổ chức xây dựng dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh trước ngày 31/12/2022.

Bộ TN&MT đã khẩn trương nghiên cứu, xây dựng dự thảo Danh mục phân loại xanh trình Chính phủ. Tuy nhiên, do một số nội dung còn có ý kiến khác nhau giữa các cơ quan chức năng, đến nay danh mục phân loại xanh vẫn chưa được ban hành, gây khó khăn cho việc thiết kế và thực hiện chính sách hỗ trợ chuyển đổi xanh, cũng như hoạt động tín dụng xanh, trái phiếu xanh.

nguyen-anh-tuan2

TS. Nguyễn Anh Tuấn, Tổng biên tập Tạp chí Nhà đầu tư/Nhadautu.vn phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: Trọng Hiếu.

Từ nhiều năm nay, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững là chủ đề đã được Ban biên tập Tạp chí Nhà đầu tư hết sức quan tâm. Hàng loạt bài viết chuyên sâu về chủ đề này đã được đăng tải trên các ấn phẩm của Tạp chí Nhà đầu tư.

"Chúng tôi cũng đã tổ chức một số cuộc hội thảo và xuất bản cuốn sách về kinh tế tuần hoàn nhằm góp phần thúc đẩy chuyển đổi xanh. Và ngày hôm nay, nhằm nhận diện và có thêm góc nhìn về những khó khăn, vướng mắc pháp lý đối với thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh, tìm giải pháp thúc đẩy thị trường tài chính xanh phát triển tương xứng với tiềm năng và nhu cầu của nền kinh tế, Tạp chí Nhà đầu tư với sự phối hợp của Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường - Bộ TN&MT tổ chức Hội thảo "Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phát triển tín dụng xanh, trái phiếu xanh: Vấn đề cấp bách"", TS. Nguyễn Anh Tuấn nhấn mạnh.

Theo TS. Nguyễn Anh Tuấn, hội thảo sẽ tập trung thảo luận, làm rõ vấn đề thực trạng, tiềm năng, cơ hội và nhu cầu phát triển thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh tại Việt Nam;

Những khó khăn, thách thức về mặt pháp lý đối với hoạt động tín dụng xanh, trái phiếu xanh, kinh nghiệm quốc tế trong phát triển thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh;

Tính cấp thiết ban hành Danh mục phân loại xanh, hệ lụy của việc chậm trễ ban hành danh mục này;

Những vướng mắc trong việc ban hành Danh mục phân loại xanh của Việt Nam; chia sẻ ý kiến về những quy định còn có ý kiến khác nhau trong dự thảo về đề xuất giải pháp xử lý.

I - THAM LUẬN

Dư nợ tín dụng xanh còn khiêm tốn

Bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng, Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước trình bày tham luận "Tiềm năng, thực trạng và giải pháp khơi thông, phát triển tín dụng xanh ở Việt Nam":

Tăng trưởng xanh và phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách, xu thế tất yếu và là giải pháp để các quốc gia vượt qua các thách thức nghiêm trọng của suy thoái kinh tế, bùng nổ dân số, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, suy giảm đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu trong trình phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Trong bối cảnh các quốc gia đang ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, mô hình tăng trưởng xanh, bền vững là mô hình được các quốc gia hướng đến.

pham-thi-thanh-tung

Bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng, Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước trình bày tham luận. Ảnh: Trọng Hiếu.

Là một trong những quốc gia thường xuyên chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, tác động đến đời sống, sinh kế của người dân, việc thúc đẩy tăng trưởng xanh hay quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh sẽ tạo ra tiềm năng to lớn để Việt Nam đạt được mục tiêu phát triển bền vững và giảm đói nghèo.

Chính vì thế, tại Đại hội Đảng lần thứ XIII của Đảng, vấn đề "thể chế phát triển bền vững" lần đầu tiên đã được đặt ra làm cơ sở, định hướng để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững cho đất nước.

Với định hướng đó, thời gian qua, Việt Nam đã tích cực tham gia thực hiện các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và phát triển bền vững, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển bền vững thông qua nhiều Nghị quyết, kết luận, hoàn thiện Luật Bảo vệ môi trường, ban hành các đề án, chiến lược, kế hoạch hành động phát triển bền vững,…

Về phía ngành ngân hàng, với chức năng là một trong những kênh dẫn vốn của nền kinh tế, với tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam luôn dao động ở mức cao, hoạt động tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng, hỗ trợ tích cực cho phát triển kinh tế và giải quyết một số vấn đề an sinh xã hội.

Vì vậy, việc triển khai các giải pháp từ ngành ngân hàng sẽ góp phần định hướng dòng vốn tín dụng đầu tư vào các dự án xanh, thân thiện với môi trường, từ đó góp phần thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, phát triển bền vững của quốc gia.

Trong thời gian qua, trên cơ sở bám sát mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ trong và ngoài nước, NHNN đã chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng ngân hàng nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung tín dụng cho các ngành sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế... qua đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân thực hiện các dự án góp phần bảo vệ môi trường, hỗ trợ tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Đồng thời, trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ và thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng, NHNN cũng đã chủ động lồng ghép, xây dựng các đề án, chương trình tín dụng góp phần tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thực hiện các dự án góp phần bảo vệ môi trường, hỗ trợ tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

tin-dung-xanh1

Hội thảo được sự quan tâm của lãnh đạo các bộ, ngành, các chuyên gia tài chính kinh tế, đại diện ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty niêm yết, đại diện các tổ chức quốc tế, tổ chức xếp hạng tín nhiệm và cơ quan truyền thông, báo chí. Ảnh: Trọng Hiếu.

Thứ nhất, bổ sung, hoàn thiện các quy định, định hướng về ngân hàng xang và tín dụng xanh phù hợp với những mục tiêu tăng trưởng xanh. Mục tiêu cụ thể đến năm 2025 là 100% ngân hàng xây dựng được quy định nội bộ về quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng, thực hiện đánh giá rủi ro môi trường xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; kết hợp đánh giá rủi ro môi trường như một phần trong đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng; áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường cho các dự án được ngân hàng cấp vốn vay.

Bổ sung, lồng ghép định hướng phát triển tín dụng xanh, ngân hàng xanh vào các định hướng hoạt động, phát triển của ngành ngân hàng.

Thứ hai, triển khai các giải pháp nhằm hỗ trợ các tổ chức tín dụng (TCTD) đa dạng sản phẩm ngân hàng - tín dụng xanh, góp phần thực hiện tăng trưởng xanh NHNN khuyến khích các TCTD tập trung nguồn vốn tín dụng ngân hàng cho các dự án, phương án sản xuất kinh doanh, đầu tư cho các ngành/lĩnh vực xanh, giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu

Thứ ba, NHNN thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường năng lực cho hệ thống ngân hàng trong thực hiện tín dụng – ngân hàng xanh.

Kết quả hoạt động tín dụng xanh: Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên, thời gian qua, nhận thức của hệ thống ngân hàng đã có sự chuyển biến rõ rệt, các TCTD đã tích cực tham gia cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh, phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vốn, về dịch vụ ngân hàng cho mục tiêu chuyển đổi xanh của người dân, doanh nghiệp.

Kết quả báo cáo thống kê của các TCTD về cấp tín dụng cho các lĩnh vực xanh là một cơ sở quan trọng để NHNN đánh giá được sự hiệu quả của các chính sách, giải pháp trong chính sách tín dụng góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh quốc gia.

Trong 7 năm qua (2017-2023), dư nợ cấp tín dụng xanh của hệ thống có mức tăng trưởng bình quân đạt hơn 22%/năm. Đến 31/12/2023, đã có 47 TCTD phát sinh dư nợ tín dụng xanh với dư nợ đạt 620.984 tỷ đồng, tăng 24% so với cuối năm 2022, chiếm tỷ trọng khoảng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm tỷ trọng gần 45%) và nông nghiệp xanh (gần 30%).

Nhiều TCTD đã xây dựng các gói tín dụng xanh, chương trình tín dụng xanh phù hợp với đặc thù hoạt động kinh doanh, chuyển đổi xanh. Các TCTD đã tăng cường đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Đến 31/12/2023, dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt 2,84 triệu tỷ đồng, chiếm hơn 20%/tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế, tăng hơn 20% so với cuối năm 2022.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai các giải pháp nhằm thúc đẩy tín dụng xanh hiện nay còn gặp một số khó khăn chính như: Danh mục phân loại xanh là căn cứ để NHNN đánh giá được hiệu quả của các chính sách, giải pháp trong chính sách tín dụng góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh quốc gia, là cơ sở quan trọng để các TCTD xác định định mức, quy mô đầu tư, xây dựng và triển khai các chính sách, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp.

toan-canh

Toàn cảnh hội thảo.

Mặc dù, Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực ASEAN xây dựng được một hướng dẫn thống kê về tín dụng theo phân loại xanh, tuy nhiên hướng dẫn về 12 ngành xanh do NHNN ban hành từ năm 2017, chưa phải là danh mục phân loại xanh quốc gia và chưa có sự thống nhất về việc phân loại lĩnh vực xanh của các bộ, ngành khác, chưa đảm bảo xác định, thống kê đầy đủ nguồn lực tín dụng xanh của ngành ngân hàng cho nền kinh tế nên tỷ trọng tín dụng xanh mới chiếm 4,5% dư nợ nền kinh tế.

Do vậy, cần có quy định chung về Danh mục phân loại xanh quốc gia phù hợp với phân loại ngành kinh tế và thông lệ quốc tế. Từ đó, các TCTD có cơ sở để đánh giá cụ thể đối với từng khách hàng, doanh nghiệp trong quá trình thẩm định cho vay; tập trung, ưu tiên bố trí nguồn vốn hợp lý tài trợ cho các dự án thuộc Danh mục phân loại xanh.

Để các cơ chế, chính sách của ngành ngân hàng thực sự phát huy hiệu quả nhằm mở rộng và khơi thông nguồn vốn tín dụng cho các lĩnh vực xanh, bên cạnh những nỗ lực của ngành ngân hàng để hướng dòng vốn tín dụng tài trợ dự án thân thiện với môi trường, thúc đẩy các ngành sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng xanh, việc mở rộng và khơi thông nguồn vốn tín dụng cho các lĩnh vực xanh đòi hỏi sự phối, kết hợp từ nhiều phía.

Do vậy, NHNN kiến nghị các bộ, ngành rà soát, tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoàn thiện hành lang pháp lý để: Có hướng dẫn về Danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án xanh phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam làm cơ sở cho các TCTD có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh; Nghiên cứu có hướng dẫn chung về ESG giúp các doanh nghiệp có cơ sở thực hiện chuyển đổi xanh

Xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh;

Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn cho các chủ đầu tư có thêm nguồn lực triển khai các dự án xanh.

tin-dung-xanh2

Các đại biểu trao đổi tại hội thảo. Ảnh: Trọng Hiếu.

Đối với các TCTD xác định hoạt động tín dụng xanh, ngân hàng xanh là xu thế, yêu cầu để hướng đến phát triển bền vững, từ đó lồng ghép phát triển xanh trong định hướng, xây dựng chiến lược kế hoạch kinh doanh của TCTD....

Cộng đồng doanh nghiệp bên cạnh việc nâng cao năng lực quản trị điều hành, minh bạch tài chính và thông tin hoạt động, tái cấu trúc hoạt động, xây dựng phương án chuyển đổi sản xuất kinh doanh hiệu quả phù hợp với thực tế cần tích cực thể hiện vai trò trách nhiệm với môi trường và xã hội làm cơ sở để các TCTD thẩm định cho vay.

Về phía NHNN, trên cơ sở bám sát các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và các đề án, chiến lược, kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh, chống biến đổi khí hậu, thời gian tới, NHNN tiếp tục thực thi các chính sách tín dụng nhằm thúc đẩy hoạt động của ngành ngân hàng hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh.

Đẩy mạnh đàm phán, tạo thuận lợi cho các tổ chức tài chính quốc tế và các TCTD trong nước tham gia hoạt động hợp tác quốc tế tài trợ vốn cho các dự án xanh, có lợi ích về môi trường xã hội, từ đó tăng cường huy động nguồn lực, góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh.

Danh mục phân loại xanh giúp thu hút đầu tư

PGS-TS. Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ TN&MT trình bày tham luận "Xây dựng Danh mục phân loại xanh: Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn ở Việt Nam":

Trong quá trình tổ chức triển khai các quy định của Thủ tướng Chính phủ về phân loại xanh, trái phiếu xanh, chúng tôi có sự tham khảo và nhận hỗ trợ từ nhiều tổ chức quốc tế, như: Tổ chức Sáng kiến trái phiếu khí hậu (CBI- Climate Bond Initiative), Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), các Nhóm công tác Kỹ thuật và Công nghiệp của CBI…

Chính vì vậy, quy định phân loại xanh ở Việt Nam là hoàn toàn hài hòa với quy định trên thế giới. Ngân hàng Nhà nước có công văn hướng dẫn để cấp trái phiếu xanh, tín dụng xanh. Sau khi có chỉ thị Thủ tướng Chính phủ, thị trường trái phiếu xanh rất phát triển.

nguyen-dinh-tho

PGS-TS. Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ TN&MT. Ảnh: Trọng Hiếu.

Tại Nghị định 08, Bộ Tài nguyên và Môi trường với sự hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế đã nhất trí theo đề xuất thống nhất tách riêng 2 phân loại xanh này, để xác định các dự án xanh tổ chức triển khai ở Việt Nam.

Trong quá trình triển khai, các quy định phân loại xanh được xây dựng dựa trên cơ sở là các danh mục đã được tổ chức quốc tế triển khai thực hiện, nguyên tắc của chúng ta là áp dụng các tiêu chí về môi trường đã được thực hiện trên thế giới. Thông qua đó đưa ra dự án áp dụng tiêu chính xanh, từ đó xác định tổ chức cấp chứng nhận phân loại xanh. Các dự án ở Việt Nam đáp ứng xanh phải có các yếu tố như: Kinh tế tuần hoàn, kéo dài vòng đời sản phẩm, giảm phát thải ra môi trường…

Đồng thời, đáp ứng các yêu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng trong việc bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học, đảm bảo yếu tố biến đổi khí hậu… Cơ bản không khác với các tiêu chí trên thế giới. Trong quá trình soạn thảo, chúng tôi phân vân về kinh tế tuần hoàn, liệu có đưa yếu tố "nâu" vào không? Liệu yếu tố "nâu" gây tác động xấu đến môi trường, hoặc sử dụng để đảm bảo hiệu quả tài nguyên thiên nhiên? Khó khăn nhất trong xây dựng phân loại xanh là xác định lĩnh vực, ngành để đưa vào nhóm phân loại xanh.

Chúng ta có 9 nhóm ngành. Từ đó, chúng ta xác định tổ chức đưa ra chứng nhận cho các đơn vị để xác định phân loại xanh. Hiện tại có 3 đề xuất tổ chức xác nhận phân loại xanh. Phương án 1 là thông qua tổ chức độc lập - hiện được các tổ chức quốc tế, NHNN, Bộ Tài chính ủng hộ.

Phương án 2 là thông qua cơ quan quản lý Nhà nước. Chúng tôi đề xuất dự thảo các dự án đánh giá tác động môi trường, thì sẽ giao Sở TN&MT các địa phương xác định. Với các dự án 1 tỉnh, liên tỉnh, thì giao các đơn vị thuộc Bộ TN&MT. Với cá dự án không cần đánh giá, giao Phòng TN&MT với các dự án trong 1 quận huyện, và Sở TN&MT với dự án thuộc nhiều hơn 1 quận huyện. 2 phương án đầu tiên thì dùng cơ quan chức năng, đơn vị độc lập.

Phương án thứ 3 dùng các TCTD trực tiếp trong quá trình thẩm định các dự án tín dụng. Thông qua các nội dung trên, đã có những vướng mắc lớn nhất về trình dự thảo phân loại xanh. Theo đó, tập quán chung trên thế giới là dùng các tổ chức độc lập.

Ở Việt Nam thì liên quan chính sách hỗ trợ tín dụng xanh, trái phiếu xanh từ cơ quan quản lý do đó cần xác nhận từ các cơ quan quản lý để xác định không có sự lợi dụng, sử dụng sai mục đích. Đối với tín dụng có sự thuận lợi nhất định, việc thẩm định dự án đi kèm thẩm định dự án xanh thì NHNN và và 47 NHTM đang thực hiện theo hướng dẫn NHNN. Nhưng cũng có thể dẫn đến việc "vừa đá bóng, vừa thổi còi", mong có tổ chức độc lập.

tin-dung-xanh3

 

Mặt khác, một vấn đề là 1 dự án cấp tín dụng xanh, trái phiếu xanh, nhưng có thể sau đó không còn xanh nữa. Hoặc có sự gian lận cấp tín dụng xanh, trái phiếu xanh thì tổ chức xác nhận thực hiện thế nào. Hoặc tổ chức vi phạm xử lý ra sao? Việt Nam đang đứng trước thách thức khi phải ứng phó với các vấn đề như biến đổi khí hậu, suy giảm đa dạng sinh học.

Chúng ta phải giải quyết các vấn đề này khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ tới. Trong năm 2023, châu Âu đã áp dụng biên giới carbon thí điểm, hiệu lực từ năm 2026, ảnh hưởng tới nhiều ngành ở Việt Nam như thép, phân bón… Hoặc, từ 1/1/2025, các mặt hàng xuất khẩu sang châu Âu không có nguồn gốc từ phá rừng. Hay, Việt Nam sắp tới tham gia ký kết Hiệp ước Nhựa toàn cầu.

Có thể thấy, châu Âu đưa tiêu chí xanh xếp số 1, chất lượng số 2 và giá cả đứng thứ 3. Cùng với đó, hệ thống ngân hàng nếu không áp dụng quy định quản lý rủi ro trong lĩnh vực môi trường, thì các doanh nghiệp có thể phải đối mặt rủi ro với việc phải rời khỏi thị trường đột ngột, ví dụ điển hình nhất là nhóm dệt may.

Xây dựng hệ thống Danh mục phân loại xanh theo chuẩn quốc tế đóng một vai trò rất quan trọng đối với Việt Nam trong việc thúc đẩy phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Việc áp dụng chuẩn quốc tế trong việc đánh giá và phân loại các dự án xanh sẽ mang lại nhiều lợi ích đáng kể cho đất nước, từ khía cạnh kinh tế, môi trường đến xã hội.

Một trong những tầm quan trọng hàng đầu là tạo điều kiện cho phát triển bền vững. Việc xây dựng mục phân loại xanh dựa trên chuẩn quốc tế giúp xác định rõ ràng những tiêu chí và yếu tố quan trọng trong việc đánh giá tính bền vững của các dự án. Điều này khuyến khích việc đầu tư và phát triển các dự án có tác động tích cực đến môi trường, đồng thời hạn chế sự phát triển của những dự án gây hại.

Bên cạnh đó, việc tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và tài trợ quốc tế là một yếu tố quan trọng. Các nhà đầu tư và tổ chức quốc tế ngày càng quan tâm đến các dự án xanh và bền vững. Bằng việc áp dụng chuẩn quốc tế trong việc phân loại các dự án, Việt Nam sẽ tạo ra sự minh bạch và tin tưởng cho cộng đồng quốc tế. Điều này giúp thu hút đầu tư và tài trợ quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và công nghệ trong nước.

Triển khai tín dụng xanh còn nhiều vướng mắc

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng BIDV trình bày tham luận "Tài chính xanh - vấn đề đặt ra với Việt Nam hiện nay":

Tài chính xanh dù đã được triển khai tại Việt Nam hơn 10 năm, nhưng quy mô còn nhỏ (tín dụng xanh chỉ chiếm 4,4% tổng dư nợ, trái phiếu xanh còn rất ít…). Đặc biệt, việc triển khai tín dụng xanh còn nhiều vướng mắc như chưa có khung pháp lý, chính sách tổng thể (gồm cả thuế, phí, vốn ưu đãi…) liên quan đến việc triển khai tài chính xanh, tài chính bền vững;

Các dự án xanh thường có kỳ hạn dài (có thể lên đến 20 năm), chi phí đầu tư lớn,…. trong khi các nguồn vốn cho vay của các TCTD thường là vốn huy động ngắn, trung hạn và bên vay đòi hỏi lãi suất ưu đãi…

can-van-luc

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng ngân hàng BIDV. Ảnh: Trọng Hiếu.

Với trái phiếu xanh, còn thiếu các hướng dẫn chi tiết của các cơ quan chức năng (thông tin, tiêu chí về dự án xanh); cơ chế quản lý, giám sát việc sử dụng nguồn vốn …; Khung pháp lý, hạ tầng công nghệ thông tin, nền tảng nhà đầu tư…trên thị trường trái phiêu doanh nghiệp còn chưa hoàn thiện; chưa có các chính sách khuyến khích doanh nghiệp phát hành và đầu tư trái phiếu xanh.

Với cổ phiếu xanh, các công ty niêm yết chưa có sự chủ động đưa ESG vào định hướng kinh doanh và quản trị doanh nghiệp; tiềm ẩn nguy cơ xuất hiện hiện tượng lợi dụng nhãn mác xanh nhưng không thực sự vì môi trường (Green washing).

Để phát triển tài chính xanh tốt hơn, Việt Nam cần có một chiến lược tổng thể để phát triển thị trường tài chính xanh một cách hài hòa, hiệu quả giữa các kênh dẫn vốn, gắn với các định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hôi.

Theo đó, nên có những nhóm giải pháp sau đây. Một là, hoàn thiện khung chính sách cho phát triển thị trường tài chính xanh. Các chính sách liên quan đến thị trường tài chính xanh cần sớm được ban hành cụ thể song song hoặc lồng ghép với những chính sách về tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng và ứng phó biển đổi khí hậu...

Trong đó, cần xác định các lĩnh vực ưu tiên trước (như năng lượng, giao thông vận tải, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, du lịch...). Có thể tham khảo chiến lược/mô hình 5Is của Malaysia đồng thời lưu ý có các quy định, điều kiện khi niêm yết cổ phiếu xanh, báo cáo bền vững và giám sát doanh nghiệp theo các tiêu chí tài chính xanh…. Khi đó, các bộ, ngành liên quan cần ban hành sổ tay, quy trình triển khai phù hợp.

Hai là, có cơ chế, chính sách để thu hút nguồn vốn (cả Nhà nước và tư nhân) cho đầu tư xanh bằng cách ban hành các chính sách miễn giảm thuế, phí, lệ phí, lãi suất và hỗ trợ các chi phí liên quan đến phát hành trái phiếu xanh, cung cấp tín dụng xanh; đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong quá trình phát hành trái phiếu xanh, tín dụng xanh như nêu trên. Nghiên cứu thành lập Quỹ phát triển xanh (tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc); nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường, Quỹ Khoa học công nghệ.

tin-dung-xanh5

 

Ba là, Chính phủ sớm ban hành bộ tiêu chí về dự án xanh, công trình xanh, công sở xanh…; cập nhật các tiêu chí trái phiếu xanh, tín dụng xanh cho phù hợp với mục tiêu mới, bối cảnh mới và theo thông lệ quốc tế (ít nhất là tiêu chuẩn ASEAN). Đồng thời, cần có thêm hướng dẫn trong trường hợp nếu dự án hoặc hạng mục dự án không đảm bảo được tính xanh sau mỗi kỳ đánh giá như cách thức xử lý, khắc phục vi phạm, công bố thông tin về vi phạm, xét duyệt lại sau khi hoàn thiện khắc phục….

Bốn là, cần hoàn thiện chính sách, đơn giản hóa thủ tục và khuyến khích các tổ chức trong nước tham gia vào quá trình xác nhận, chứng nhận khung dự án xanh, trái phiếu xanh và dán nhãn dự án xanh, trái phiếu xanh theo các tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, xây dựng bộ tài liệu mẫu (công bố thông tin trước phát hành, công bố thông tin định kỳ, báo cáo…) về việc hướng dẫn hoạt động phát hành trái phiếu xanh trong nước và quốc tế làm cơ sở để các đơn vị tham gia thống nhất thực hiện.

Năm là, quan tâm phát triển thị trường tài chính, nhất là thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường cổ phiếu, thị trường quỹ và thị trường phái sinh nhằm: Giảm tải phụ thuộc vốn trung dài hạn vào hệ thống ngân hàng, tạo lập hệ sinh thái về huy động vốn và phân bổ vốn của nền kinh tế, của doanh nghiệp và nhà đầu tư; góp phần nâng hạng thị trường chứng khoán; kiểm soát rủi ro liên thông giữa ngân hàng - chứng khoán - bất động sản…., trong đó cần tham khảo mô hình 5Is của Malaysia, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, dữ liệu, an ninh mạng, bảo vệ người tiêu dùng tài chính, giáo dục tài chính….

Sáu là, Chính phủ, các bộ ngành có chính sách, giải pháp để trực tiếp hoặc hỗ trợ các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính tiếp cận các nguồn tài chính xanh quốc tế, các chương trình đào tạo, trao đổi kinh nghiệm quốc tế về tăng trưởng xanh và tài chính xanh. Đồng thời, đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục - đào tạo, tập huấn, chương trình phổ biến nhằm nâng cao nhận thức, năng lực chuyên môn về tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, tài chính xanh, đầu tư và kể cả tiêu dùng xanh cho các bên liên quan.

Cuối cùng, bản thân doanh nghiệp, tổ chức tài chính cần có kế hoạch, chiến lược phát triển xanh, phát triển bền vững, xây dựng văn hóa xanh, chủ động lập báo cáo ESG, báo cáo phát triển bền vững; đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ nhân lực liên quan, nhất là các bộ phận liên quan đến tài chính xanh, tín dụng xanh, quản lý rủi ro môi trường – xã hội và ESG….

Cần các chính sách thúc đẩy phát triển thị trường carbon

TS. Nguyễn Thị Thu Hà, Giám đốc Trường Đào tạo cán bộ kiêm Phó Trưởng ban Chỉ đạo ESG Agribank trình bày tham luận "Khuôn khổ pháp lý, thực trạng và giải pháp triển khai ESG tại Agribank".

Agribank chiếm đến 70% cho vay nông nghiệp, nông thôn - một trong 3 lĩnh vực ảnh hưởng đến môi trường do sử dụng nguồn nước, phân bón, thuốc trừ sâu hoặc trên đất rừng, đất chuyển đổi. Agribank với vai trò đơn vị có sự quan tâm đặc biệt của nhà nước và tổ chức quốc tế rất quan tâm đến tín dụng xanh, trái phiếu xanh. Ngân hàng cũng nhận thấy tín dụng xanh liên quan chặt chẽ đến 3 vấn đề phát triển bền vững gồm môi trường, xã hội và quản trị (ESG).

nguyen-thi-thu-ha

TS. Nguyễn Thị Thu Hà, Giám đốc Trường Đào tạo cán bộ kiêm Phó Trưởng ban Chỉ đạo ESG Agribank. Ảnh: Trọng Hiếu.

Moody’s xếp hạng Agribank về ESG ở mức 2 cao nhất trong các NHTM ở VN (không ảnh hưởng tới kết quả xếp hạng cuối cùng), Fitch Rating xếp hạng ESG ở mức 3 (ảnh hưởng ít đến kết quả xếp hạng cuối cùng).

Do vậy, Agribank nhận thức được nếu chỉ tuân thủ tín dụng xanh không đảm bảo uy tín trên thị trường và ảnh hưởng đến kết quả xếp hạng tín nhiệm. Do vậy, ngân hàng tập trung triển khai đầy đủ 3 yếu thuộc ESG gồm môi trường, xã hội và quản trị. Ngân hàng quan tâm và triển khai tín dụng xanh từ sớm, tỷ lệ cho vay tăng dần các năm qua nhưng đến 2023 mới chiếm tỷ lệ thấp 1,8%.

Ngân hàng chú trọng đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, công tác an sinh xã hội, tăng cường vai trò của người phụ nữ, xây dựng cơ cấu quản trị ESG, quản trị rủi ro toàn diện… Agribank ý thức được tầm quan trọng của công khai thông tin, trách nhiệm giải trình.

Liên quan đến báo cáo phát triển bền vững, hiện nay các doanh nghiệp, ngân hàng chủ yếu tích hợp báo cáo phát triển bền vững trong báo cáo thường niên. Agribank đang hướng tới việc tách riêng báo cáo phát triển bền vững đã kiểm toán. Các ngân hàng trên thế giới không chỉ công bố báo cáo phát triển bền vững riêng mà còn công bố báo cáo tuân thủ tài chính khí hậu.

tin-dung-xanh4

 

Agribank đề xuất một số kiến nghị như sau: Thứ nhất, Bộ TN&MT và các cơ quan ban ngành sớm xây dựng và ban hành bộ tiêu chí môi trường và các tiêu chí xác định đối với các dự án được cấp tín dụng xanh để các TCTD có cơ sở pháp lý và kỹ thuật trong việc xác định các dự án, hạng mục dự án đáp ứng điều kiện tín dụng xanh.

Thứ hai, Chính phủ, Bộ TN&MT có các chính sách thúc đẩy phát triển thị trường carbon như: Xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon; triển khai các hoạt động tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về phát triển thị trường carbon…nhằm đẩy nhanh vận hành chính thức sàng giao dịch tín chỉ carbon tại Việt Nam;

Thứ ba, Chính phủ tiếp tục tuyên truyền, phổ biến về sự cần thiết phát triển bền vững, ngân hàng xanh, lĩnh vực đáp ứng tiêu chí tín dụng xanh khuyến khích lối sống, tiêu dùng xanh hài hòa với thiên nhiên, gắn với các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam; hỗ trợ các TCTD trong nước ngày càng tiếp cận được nhiều hơn các quỹ tàichính, gói tài trợ đối với tín dụng xanh của các tổ chức trên thế giới

Thứ tư, xây dựng và hình thành hệ thống dữ liệu về tình hình tuân thủ, vi phạm yêu cầu về môi trường của doanh nghiệp, tạo cơ sở cho các TCTD trong việc thẩm định, xác định mức độ rủi ro môi trường khi đánh giá khách hàng vay, từ đó hạn chế/giảm cấp các khoản vay cho hoạt động gây hại môi trường.

Thứ năm, Chính phủ, các bộ, ngành và NHNN ban hành, hướng dẫn, tuyên truyền khung pháp lý cụ thể và rõ ràng hơn về tiêu chí xã hội và quản trị đối với doanh nghiệp và NHTM, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng xu hướng hội nhập của nền kinh tế, quốc tế; có chính sách ưu đãi về thuế, phí, cơ chế bảo hiểm, lãi suất, dự trữ bắt buộc đối với doanh nghiệp, NHTM chủ động triển khai thực thi ESG hiệu quả, được tổ chức xếp hạng quốc tế đánh giá cao....

II - THẢO LUẬN MỞ

TS. Nguyễn Anh Tuấn, Tổng biên tập Tạp chí Nhà đầu tư điều phối phiên thảo luận mở.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Trong phiên I hội thảo đã nghe 4 tham luận đề cập 4 nội dung khác nhau, nhưng đều xoay quanh câu chuyện làm thế nào thúc đẩy chuyển đổi xanh, đặc biệt là nguồn lực về tài chính cho quá trình chuyển đổi này. Các diễn giả đã đều khẳng định chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu, vấn đề bức bách.

Mở đầu phiên thảo luận, tôi muốn tập trung vào câu chuyện làm thế nào đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xanh. Trước hết, muốn nghe ý kiến PGS-TS. Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, đơn vị cũng đã tổ chức nhiều hội thảo nghiên cứu về chuyển đổi xanh, xin ông cho biết thách thức lớn nhất với Việt Nam trong quá trình chuyển đổi xanh là gì và làm thế nào để vượt qua thách thức đó?

dieu-phoi

TS. Nguyễn Anh Tuấn, Tổng biên tập Tạp chí Nhà đầu tư điều phối phiên thảo luận mở.

Rà soát lại vướng mắc trong thực thi chuyển đổi xanh

PGS-TS. Bùi Quang Tuấn: Việt Nam đang đi cùng với thế giới về mặt tư duy trong tăng trưởng xanh. Cùng với tăng trưởng xanh, Việt Nam đang thu hẹp khoảng cách với Trung Quốc, cũng như các nước trong khu vực.

Vấn đề là dù xác định xu hướng như vậy, cũng đã có khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh gồm cả chiến lược, kế hoạch hành động nhưng vấn đề ở đây thách thức với Việt Nam trong chuyển đổi xanh còn lớn.

Tổng kết thực hiện kế hoạch chuyển đổi xanh quốc gia cho thấy chúng ta mới đi được 1/4 chặng đường và yếu nhất vẫn là ở thực thi chính sách. Để giải quyết vấn đề thực thi, giai đoạn 2021-2030 cần rà soát lại vướng mắc trong thực thi chuyển đổi xanh để không lặp lại những vấn đề như giai đoạn trước.

nguyen-quang-tuan

PGS-TS. Bùi Quang Tuấn,Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam. Ảnh: Trọng Hiếu.

Theo đó, các vướng mắc chủ yếu gồm: Một là năng lực thực thi chủ trương chính sách. Chúng ta đã có sổ tay hướng dẫn tín dụng xanh, trưởng xanh, đã có quy định về chuyển đổi xanh. Nhưng hiện nay vẫn chưa có Danh mục phân loại xanh, tiêu chí môi trường. Dù đã có chủ trương nhưng tại sao tín dụng với các dự án xanh chỉ 4-5% tổng tín dụng trong khi tiềm năng lớn, mục tiêu cao?

Hai là hỗ trợ, can thiệp của Nhà nước vào thị trường. Việc thiếu hỗ trợ sẽ tạo nguồn cung hạn chế cho thị trường. Vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức. Có cung thì mới có cầu. Vì vậy, nhận thức doanh nghiệp chưa đẩy đủ để tham gia vào chuyển đổi xanh. Đi cùng với đó là sự hấp dẫn của trái phiếu xanh, tín dụng xanh còn chưa cao.

Cần thấy rằng, để chuyển đổi xanh cần thay thế thế hệ công nghệ và vô cùng tốn kém vì vậy cần có lãi suất ưu đãi, phải có công cụ tài chính hấp dẫn mới có người tham gia.

Ba là làm thế nào để có nền tảng chuyển đổi xanh. Xanh hoá sản xuất là cấu phần quan trọng, cơ cấu năng lương, phát thải, thực hiện kinh tế tuần hoàn, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu. Từ cấp độ quốc gia, công nghệ đầu tư không đủ. Trung bình các nước đầu tư khoảng 2,2% GDP cho công nghệ trong khi đó Việt Nam còn rất thấp, cần hỗ trợ để chuyển đổi công nghệ cho doanh nghiệp.

Chuyển đổi xanh cũng còn là vấn đề tiêu dùng, gây áp lực xanh hoá. Dư nợ tín dụng hiện nay chỉ tập trung nông nghiệp, năng lượng trong khi còn nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế còn cần chuyển đổi và chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế như xây dựng, giao thông hoặc công nghiệp chế biến chế tạo - cần coi đây là đột phá.

Bốn là làm sao nâng cao nhận thức qua truyền thông. Cần phải có văn hoá chuyển đổi xanh. Cần thay đổi nhận thức của các địa phương về chuyển đổi xanh, đó không phải chỉ là vấn đề dự án, vốn. Có thể thấy yêu cầu chuyển đổi xanh đã sát cửa ngõ nhưng vẫn sự quan tâm, tập trung của chúng ta chưa nhiều.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Xin cảm ơn ý kiến PGS-TS. Bùi Quang Tuấn. Ông đã thảo luận một số thách thức nhưng bao trùm vẫn là vẫn đề thực thi. Tiếp theo mạch này, như bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Phụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) đã trình bày tại tham luận, dư nợ tín dụng xanh so với tổng dư nợ trong nền kinh tế vẫn còn rất thấp, mới chiếm khoảng 4-5% tổng dự nợ, bà có thể lý giải nguyên nhân vì sao? Và sắp tới đây, danh mục xanh được ban hành, bà đánh giá sẽ có tác động thế nào tới tăng trưởng tín dụng xanh?

Cần một danh mục xanh phù hợp

Bà Phạm Thị Thanh Tùng: Liên quan đến nguồn lực hỗ trợ tăng trưởng xanh, tại quyết định 882 của Thủ tướng Chính phủ, Nhà nước xác định các nguồn lực tăng trưởng xanh từ ngân sách Nhà nước, nguồn từ tư nhân (tín dụng xanh, trái phiếu xanh), tổ chức quốc tế, xã hội khác.

pham-thi-thanh-tung1

Bà Phạm Thị Thanh Tùng. Ảnh: Trọng Hiếu.

Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, kết quả tín dụng xanh trên danh mục 12 ngành xanh là 620.000 tỷ đồng. Danh mục xanh ban hành năm 2017, gồm các lĩnh vực nông nghiệp xanh, lâm nghiệp xanh, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch….

Những lĩnh vực xanh gần như bao quát và trùng lặp vào 10 ngành ưu tiên phát triển theo kế hoạch hành động quốc gia, dựa trên quyết định 1658 của Thủ tướng Chính phủ. Dù vậy, có một số ngành, lĩnh vực mới giúp tăng tốc tăng trưởng xanh như hydrogen, song chưa có trong danh mục 12 ngành kể trên. Do đó, tôi nghĩ rất cần có một danh mục xanh đảm bảo tuân thủ và phù hợp phân ngành kinh tế Việt Nam và các tiêu chuẩn quốc tế để thống kê đầy đủ các danh mục xanh này.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Bà có thể cho biết thêm 12 danh mục vừa nêu, ngân hàng thương mại cho vay có được hưởng ưu đãi hay hỗ trợ hay không, hay danh mục đó chỉ phục vụ cho công tác thống kê?

Bà Phạm Thị Thanh Tùng: Chuyển đổi xanh là sự tất yếu và doanh nghiệp cần nhận thức để tồn tại và phát triển. Sự hỗ trợ của Nhà nước chỉ là biện pháp và giải pháp thêm.

Các giải pháp thì chúng ta có Luật Bảo vệ Môi trường do Quốc hội ban hành năm 2020, Nghị định 08 của Chính phủ hỗ trợ khoa học kỹ thuật, thuế phí. Liên quan tín dụng, trong danh mục 12 ngành xanh thì một số lĩnh vực nằm trong chương trình hỗ trợ và hưởng cơ chế ưu đãi, ưu đãi trần lãi suất ưu đãi, cơ chế nợ xử lý rủi ro…

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Về chính sách hỗ trợ, PGS-TS. Bùi Quang Tuấn vừa nêu tôi đánh giá cũng rất quan trọng. Thực tế hiện nay cho thấy một số doanh nghiệp đi tiên phong dù bắt buộc phải chuyển đổi trước áp lực chuyển đổi xanh và có lợi ích riêng, nhưng nếu đặt lên bàn cân so sánh vẫn thấy rõ là họ bị thiệt thòi khi không nhận được một sự hỗ trợ nào. Điển hình như việc chuyển đổi khu công nghiệp truyền thống sang khu công nghiệp xanh, khu công nghiệp sinh thái. Tại hội thảo có đại diện khu công nghiệp Cầu Kiền, xin mời ý kiến của doanh nghiệp.

Chưa có hành lang phát triển tín dụng xanh, trái phiếu xanh

Ông Nguyễn Hải Anh, Phó tổng giám đốc, Giám đốc Tài chính Công ty CP Shinec: Hiện nay, khu công nghiệp của chúng tôi có 3 tuần hoàn chính đáp ứng được đề án kinh tế tuần hoàn liên quan đến nhựa, thiết bị điện tử, thép.

Tuy nhiên, đối với các chuyển đổi của hơn 70 doanh nghiệp trong khu công nghiệp thì những vòng tuần hoàn này chỉ chiếm khoảng 10 doanh nghiệp, còn 60 doanh nghiệp vẫn đang trong quá trình mong muốn chuyển đổi, đáp ứng định hướng quốc gia. Hiện nay, chúng ta nói đến vấn đề phát triển tín dụng xanh, trái phiếu xanh nhưng hành lang pháp lý chưa có, với riêng từng ngành cũng chưa có.

nguyen-hai-anh

Ông Nguyễn Hải Anh, Phó tổng giám đốc, Giám đốc Tài chính Công ty CP Shinec . Ảnh: Trọng Hiếu.

Tựu trung tại, từ thực tiễn của doanh nghiệp chúng tôi thấy nổi lên 3 vấn để như sau:

1. Cần hành lang pháp lý để hướng dẫn cho các doanh nghiệp chuyển đổi sang xanh.

2. Các dự án đã xanh rồi, cần phải có pháp lý cụ thể để triển khai. Ví dụ, các dự án về năng lượng tái tạo, chiếm 45% số tín dụng xanh hiện nay của Việt Nam, nhưng thời điểm hiện tại ko có chính sách rõ ràng, khó qua được khâu thẩm định cho vay của Ngân hàng để tiếp cận tín dụng xanh.

3. Đối với Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền chuyển đổi sang KCN sinh thái để phấn đấu theo tiêu chí xanh, tốn kém nhiều chi phí như cây xanh, quỹ đất, thuê cả kiểm toán PWC, tư vấn ESG,...rất tốn kém nhưng không được ưu đãi gì, kể cả vay vốn vẫn lãi như các doanh nghiệp khác.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Quay sang câu chuyện về vốn, TS. Cấn Văn Lực nãy đã phân tích các yếu tố, sự quan tâm của nước ngoài, từ cam kết của các nước G7, đến các quỹ đầu tư nước ngoài đều rất hứng thú, nhưng dường như đến nay vẫn "chưa ăn thua", TS. Cấn Văn Lực có thể nói thêm vì sao ta chưa tranh thủ được nguồn lực hỗ trợ từ quốc tế này?

Thuê tư vấn độc lập cho Danh mục phân loại xanh

TS. Cấn Văn Lực: Tôi cho rằng phải có cơ chế động lực đủ mạnh, tức là có cả cây gậy và củ cà rốt. Việt Nam đã xây dựng được cơ chế chính sách nhưng lại để doanh nghiệp tự chiến đấu.

can-van-luc1

TS. Cấn Văn Lực. Ảnh: Trọng Hiếu.

Tôi lấy ví dụ như Trung Quốc đi trước khoảng vài năm nhưng đã có 3 thứ đáng tham khảo gồm lĩnh vực tư nhân đầu tư vào tăng trưởng xanh được giảm lãi suất, họ đã lập quỹ phát triển xanh quốc gia để hỗ trợ, khuyến khích thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm môi trường. Điểm thứ 2 là Việt Nam chưa cụ thể hóa.

Quỹ đầu tư quốc tế có 15,5 tỷ USD để đầu tư vào nhưng Việt Nam chưa có danh mục, dự án, chương trình, địa phương cụ thể để họ đầu tư. Cuối cùng, vấn đề liên quan đến danh mục phân loại xanh, đây là điểm cần cập nhật đầy đủ kịp thời.

Về thẩm định, tư vấn với danh mục xanh, tôi cho rằng nên thuê tư vấn độc lập. Chúng ta nên xây dựng cơ chế thẩm định mạch lạc gồm đơn vị tư vấn định giá đất và hội đồng thẩm định.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Xin cảm ơn TS. Cấn Văn Lực. Tiếp theo phần thảo luận, tôi muốn dành câu hỏi cho PGS-TS. Nguyễn Đình Thọ, tại tham luận ông có nêu câu chuyện phê duyệt danh mục xanh lẽ ra phải hoàn thành từ cách đây một năm rưỡi, tuy nhiên vì nhiều lý do đến nay vẫn chưa thể ban hành, với tư cách ban soạn thảo. Ông có thể cho biết trong các lý do chậm trễ lý do nào quan trọng nhất, và giờ phải hành động tháo gỡ như nào?

Ban hành Danh mục phân loại xanh là bức thiết

PGS-TS. Nguyễn Đình Thọ: Từ 2015 đã có nhiều thúc đẩy để ban hành sớm Danh mục phân loại xanh với áp lực cam kết toàn cầu, yêu cầu của các FTA thế hệ mới và ưu tiên của Chính phủ trong huy động tài chính xanh, công nghệ đáp ứng yêu cầu 3 cuộc khủng hoảng toàn cầu là ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và suy giảm đa dạng sinh học.

nguyen-dinh-tho1

Ông Nguyễn Đình Thọ. Ảnh: Trọng Hiếu.

Theo đó, biên giới rừng áp đặt từ 1/1/2025, biên giới carbon thí điểm tháng 10/2023, sắp tới là dấu chân nhựa. Chúng ta đã có kinh nghiệm trong thẻ vàng, nếu không đáp ứng sẽ không thể tham gia vào thương mại, đầu tư toàn cầu.

Hiện nay, ước tính cần huy động khoảng 400 tỷ USD đến năm 2040 để thực hiện chuyển đổi xanh. Chúng ta đã có tuyên bố chung với các nước trên thế giới về chuyển đổi xanh, các nước cam kết tài trợ 15,5 tỷ USD cho Việt Nam hỗ trợ chuyển đổi. Việt Nam đã có công bố kế hoạch huy động nguồn lực phục vụ chuyển đổi xanh.

Vì vậy, ban hành Danh mục phân loại xanh là bức thiết. Theo đó, việc áp dụng các tiêu chuẩn như ESG là bắt buộc. Báo cáo của doanh nghiệp thời gian tới không chỉ là kế toán mà còn là báo cáo phát thải bền vững, carbon, dấu chân nhựa và các tiêu chí môi trường, xã hội. Chất lượng tín chỉ carbon hiện nay cũng liên quan tới chất lượng xã hội, như công ăn việc làm, đời sống đối tượng tham gia.

Khi xây dựng Danh mục phân loại xanh, chúng tôi nhìn nhận trước về các vấn đề phải đối mặt trong phân loại xanh nhưng khó khăn vướng mắc lớn nhất là ai là người xác nhận phân loại xanh này? hiện nay có 3 phương án. Một là các tổ chức độc lập; 2 là các bộ ngành như Bộ TN&MT; 3 là các TCTD tự xác nhận.

Đề xuất thứ 3 gặp nhiều phản ứng nhất vì vừa "đá bóng vừa thổi còi". Phương án thứ nhất là các tổ chức độc lập, các công ty kiểm toán cấp chứng nhận. Mối đe doạ bị hạ mức tín nhiệm còn đáng lo hơn nhiều so với bị xử phạt của cơ quan quản lý vì liên quan tới lãi suất. Doanh nghiệp xác định trách nhiệm trong thực hiện uy tín vai trò của xếp hạng tín nhiệm là quan trọng.

Theo đó, quá trình xác định thẩm định xanh, chứng nhận như ISO, tổ chức tư vấn phối hợp với tổ chức công bố. Khó khăn duy nhất là có vi phạm thì xử lý thế nào? Nếu có hỗ trợ của nhà nước thì như thế nào? ai sẽ là người chịu trách nhiệm khi ưu đãi xanh sai phạm. Ngay cả việc tổ chức xác nhận không còn nằm trong danh sách Bộ TN&MT thì trách nhiệm đơn vị độc lập thế nào? chuyển tiếp thế nào? đều đang là vấn đề cần làm rõ.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Xin cảm ơn ý kiến PGS-TS. Nguyễn Đình Thọ, bà Phạm Thị Thanh Tùng có bình luận gì về phương án 3 vừa trình bày, đó là các tổ chức tín dụng tự thẩm định dự án xanh, phương án này liệu có khả thi không?

Bà Phạm Thị Thanh Tùng: Thời gian vừa qua, NHNN tích cực phối hợp với Bộ TN&MT làm danh mục xanh để trình Thủ tướng Chính phủ.

Để xác định 1 dự án có xanh hay không, NHNN mong cơ quan soạn thảo có các ngưỡng chỉ tiêu về môi trường để xác định. Dựa vào đó, TCTD xác định có thể cho vay dự án hay không, và cần có những đánh giá và xác nhận. Các TCTD cũng đồng tình cần xác định rõ để ngân hàng xác định có cấp tín dụng cho dự án xanh hay không.

Ngân hàng không thể có chuyên sâu để hiểu đó có phải dự án xanh, họ chỉ đánh giá thẩm định, hiệu quả dự án, khách hàng có trả nợ hay không, có rủi ro nào hay không? Cuối cùng là ngân hàng có thu hồi được nợ hay không?.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Vâng cảm ơn ý kiến của bà Phạm Thị Thanh Tùng. Tại hội thảo cũng có đại diện các ngân hàng thương mại, xin mời ý kiến của một trong các ngân hàng thương mại bình luận về phương án này, xin mời bà Hà Thu Phương, đại diện Vietinbank.

Hành lang riêng cho phát hành trái phiếu xanh ra thị trường quốc tế?

Bà Hà Thu Phương: Thách thức trong vấn đề thực thi đối với trái phiếu xanh rất lớn, các yếu tố động lực về mặt tài chính chưa rõ ràng để tham gia trái phiếu xanh, trong khi quy trình yêu cầu công bố thông tin, khối lượng công việc nhiều.

Nếu nhìn rộng ra ở thị trường quốc tế thì có thể thấy nhu cầu trái phiếu xanh ở Việt Nam rất lớn, tuy nhiên lực cung không có, lãi suất giữa Việt Nam và thế giới chưa thuận lợi, các chi phí tư vấn luật lớn, thủ tục tương đối lâu.

ha-thu-phuong

Bà Hà Thị Thu Phương. Ảnh: Trọng Hiếu.

Theo tôi cần có hành lang riêng cho phát hành trái phiếu xanh ra thị trường quốc tế, hiện nay các bước vẫn phải làm là đăng ký hạn mức vay nợ nước ngoài, rồi gửi hồ sở cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, sau đấy là thực hiện làm việc với nhà đầu tư tiềm năng, quy trình kéo dài từ 6-9 tháng.

Điều này sẽ làm lỡ mất cơ hội của các tổ chức phát hành, do vậy, về thủ tục nếu có cơ chế riêng thì sẽ là động lực tổ chức phát hành bắt kịp các điểm chạm của thị trường. Ngoài ra, hiện nay, các tiêu chí chưa định lượng được rõ nên ngân hàng thương mại mong có tổ chức độc lập có đủ uy tín để xác định được.

Vốn tín dụng xanh trong ngân sách ngân hàng hạn hẹp

TS. Văn Công Bình, Giám đốc Môi trường hội sở HDbank: Chúng tôi có kinh nghiệm làm việc với tổ chức quốc tế, có quy trình gọi là ESMS, tất cả các khoản vay của doanh nghiệp phải đi qua hệ thống này để xem có tác động đến môi trường hay không.

Chúng tôi tranh luận nhiều với tổ chức quốc tế và họ chưa dám khẳng định dự án có xanh không? Tôi cho rằng cần một tổ chức độc lập để thẩm định. Song, một vấn đề phát sinh là chi phí gánh nặng lên các doanh nghiệp. Các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp phải ngồi lại để tìm điểm hài hòa. Chúng ta nói nhiều về xanh nhưng chưa có bộ quy chế chuẩn về vấn đề này.

hdbank

TS. Văn Công Bình. Ảnh: Trọng Hiếu.

Một vấn đề nữa là nguồn vốn ở đâu để hỗ doanh nghiệp về xanh, các ngân hàng thương mại có đối nghịch mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, một bên lợi ích cổ đông và một bên vấn đề môi trường. Ngân hàng chắc chắn có ngân sách về tín dụng xanh nhưng không phải tất cả.

Hiện nay, nguồn vốn dành cho tín dụng xanh trong ngân sách ngân hàng hạn hẹp. Tổ chức quốc tế lớn và tìm kiếm dự án, chương trình xanh tài trợ nhưng chi phí đưa ra rất cao. Tổ chức tín dụng trong nước không thể dùng nguồn các tổ chức này để tài trợ tín dụng xanh được. Do vậy, Việt Nam rất cần nguồn vốn ở cấp độ quốc gia trên cơ chế hỗ trợ tổ chức tín dụng về mặt phí, lãi suất và chính sách.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Vâng cảm ơn ý kiến đại diện Vietinbank, HDbank, rất rõ ràng, một là nên chọn tổ chức đánh giá độc lập, hai là đối với ngân hàng cho vay xanh thì cần phải có hỗ trợ chi phí từ phía Nhà nước bởi mức cho vay để khuyến khích sẽ rất thấp, tuy nhiên đối với Nhà nước thì chi phí này lấy từ đâu. Tiếp theo xin mời ý kiến TS. Trần Đình Thiên - Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, xung quanh các câu hỏi vừa rồi, ông có bình luận gì?

Chuyển đổi xanh là sống còn

TS. Trần Đình Thiên: Vẫn là năng lực thực thi. Đây là vấn đề mới, chưa rõ khái niệm, luật lệ chưa đầy đủ thực thi thế nào? Nhà nước có ưu đãi cho doanh nghiệp đi tiên phong? Một số ý kiến cho rằng, chưa chắc cần ưu đãi, vì nếu không làm doanh nghiệp sẽ chết. Thị trường sẽ trừng phạt doanh nghiệp không xanh. Nhưng đứng trên vai trò Nhà nước thì không thể dửng dưng, cần hài hoà lợi ích, trách nhiệm quốc gia, vai trò doanh nghiệp.

nguyen-dinh-thien

TS. Trần Đình Thiên - Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng. Ảnh: Trọng Hiếu.

Nói năng lực thực thi quá yếu thì cũng cần xác định năng lực thực thi là gì? cái gì quan trọng nhất? Chúng ta đã cam kết với thế giới, không chuyển không được và càng chuyển sớm càng có lợi. Câu chuyện chuyển sang xanh là thách thức mới nhưng là việc phải làm, không phải lựa chọn và phải làm quyết liệt.

Đó là vấn đề sống còn và mỗi bộ phận phải xác nhận rõ. Thách thức quốc gia nhưng phải xác định nhà nước có vai trò biến thách thức tổng thể thành cơ hội của doanh nghiệp. Đây là thách thức của đất nước nhưng phải thiết kế chính sách để doanh nghiệp thấy cơ hội ở đó. Cần cho thấy lợi ích của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ làm, đó gọi là biến thách thức của chính quyền thành cơ hội của doanh nghiệp.

Về cơ bản, cần thấy rằng, ưu đãi là quan trọng nhưng quan trọng hơn cả ưu đãi là một môi trường cho doanh nghiệp hoạt động được. Cơ chế thị trường là quan trọng, ưu đãi là đi kèm. Nếu không hỗ trợ doanh nghiệp, tạo không gian cho doanh nghiệp hoạt động, doanh nghiệp Việt Nam có lẽ sẽ là lực lượng ra đi đầu tiên khi áp các FTA.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Xin cảm ơn TS. Trần Đình Thiên, theo ông chuyển đổi xanh là vấn đề sống còn, vướng mắc là năng lực thực thi. Trong năng lực thực thi và thiết kế chính sách thì vấn đề nổi lên rất lớn mà hội thảo đang bàn sâu là danh mục xanh.

Nếu thiếu danh mục xanh rõ ràng không thực thi được nhiều câu chuyện chuyển đổi xanh. Nhiều doanh nghiệp cho biết về lâu dài rõ ràng họ biết có lợi ích, nhưng trước mắt thì họ không đủ lực trong bối cảnh hiện nay.

Dự thảo danh mục xanh đã được các bên tham khảo, với vai trò tổ chức quốc tế, đánh giá của GIZ, IFC như nào về danh mục này, có thể cho biết kinh nghiệm lựa chọn các nước trên thế giới họ lựa chọn phương án nào và Việt Nam nên theo phương án nào? Xin mời đại diện của IFC.

"Hậu kiểm" xem việc dùng tiền huy động danh mục dự án xanh

Bà Nguyễn Thiên Hương, Phụ trách chương trình Tư vấn phát triển ngân hàng bền vững, Công ty Tài chính Quốc tế (IFC): Nhiều người đặt vấn đề rằng đã có nhiều danh mục xanh được công nhận rộng rãi như: Danh mục xanh ICMA, danh mục xanh của EU… Một trong những lý do các nước vẫn xây dựng và ban hành danh mục xanh của mình, là thể hiện họ đồng nhát với các quan điểm quốc tế, đồng thời có cơ hội cung cấp thông tin giải trình cho các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, với các hoạt động khác phù hợp với ngữ cạnh với Việt Nam.

Với danh mục phân loại xanh, IFC, GIZ đã hỗ trợ và cam kết dài trong 2-3 năm gần đây để Việt Nam tiếp cận danh mục phân loại xanh quốc tế. Mục tiêu Việt Nam là thu hút vốn đầu tư quốc tế thông qua hệ thống ngân hàng hay đầu tư trực tiếp vào doanh nghiệp. Trong quá trình hỗ trợ, IFC, GIZ đã tham khảo nhiều danh mục xanh. Đặc biệt danh mục xanh ASEAN mà Việt nam cần có sự thống nhất.

nguyen-thien-huong

Bà Nguyễn Thiên Hương. Ảnh: Trọng Hiếu.

Việt Nam đã tham khảo nhiều danh mục phân loại xanh thế giới và khu vực. Còn lý do chưa ra được? Về mặt kỹ thuật, danh mục xanh để theo quyết định Thủ tướng nhằm có thể cập nhật thời gian, còn để theo nghị định, luật thì khó cập nhật. Liên quan việc xác nhận, thực ra thì thế giới và nhiều nước việc xác nhận mang tính chất khuyến khích, dưới dạng văn bản hoặc truyền thông.

Như Singapore muốn tăng mức độ tin cậy các sản phẩm xanh. Họ đưa ra các chính sách ưu đãi bằng cách tài trợ tiền mà tổ chức phát hành phải thuê một bên thứ 3 để đánh giá. Việt Nam muốn đưa xác nhận vào để đón đầu chương trình ưu đãi sau này.

Có 2 phương án đưa ra, một là xác nhận trực tiếp của cơ quan quản lý (CQQL) Nhà nước, hai là xác nhận bên thứ ba và chịu sự quản lý của cơ quan quản lý nhà nước. Có phương án là CQQL đán giá tác động môi trường sẽ xác nhận dự án này. Khả thi trong trường hợp chủ dự án ở thời điểm xây dựng dự án và xin phê duyệt tác động môi trường, và có tầm nhìn xin phê duyệt dự án xanh. Hai là dự án này nằm trong diện phải đánh giá tác động môi trường.

Điều này sẽ loại bỏ nhiều dự án không yêu cầu đánh giá tác động môi trường, nhưng có nhu cầu vay vốn, huy động vốn xanh. Họ cũng sẽ không có cơ hội quay lại xin tác động xanh. Đối tác thị trường quốc tế, họ sẽ dùng một bên độc lập.

Có 2 loại: Ở thời điểm phát hành trái phiếu, họ sẽ có bản cáo bạch, "roadshow" chào hàng, và thuê một bên thứ 3 xem đánh giá có phù hợp với khung trái phiếu xanh hay tín dụng xanh hay không. Bên cạnh đó, cần "hậu kiểm" xem việc dùng tiền huy động có nằm trong danh mục dự án xanh hay không. Chúng tôi mong muốn một bên độc lập thứ 3 tham gia xác nhận.

tin-dung-xanh6

 

Có thể lấy ví dụ các công ty kiểm toán kiểm toán công ty đại chúng thì phải đáp ứng một số yêu cầu của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, cơ quan này hàng năm cũng phải công bố danh sách đơn vị kiểm toán. Như vậy, cần có các tiêu chí cụ thể với bên thứ 3 xác nhận. Điều này hợp với thông lệ của EU với các yêu cầu cụ thể, các tổ chức đăng ký, và hàng năm ủy ban công bố danh sách các tổ chức đáp ứng tiêu chí.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Hiện 2 bộ đang tham gia tích cực vào chuyển đổi xanh là Bộ TN&MT và Bộ KH&ĐT thì một bộ xây dựng tiêu chí về môi trường, một bộ xây dựng những ưu đãi liên quan đến xanh. Liên quan đến chính sách ưu đãi, xin mời ý kiến ông Nguyễn Hoa Cương, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM). Ông có thể cho biết sau khi có danh mục xanh có cần ban hành thêm một nghị định nữa về ưu đãi xanh như ưu đãi về lãi suất, công nghệ…

Đang xây dựng đề án phân loại ngành kinh tế xanh

Ông Nguyễn Hoa Cương: Tôi muốn nói đến mối quan tâm của cộng đồng thế giới trong môi trường số, nếu chúng ta tra Google về vấn đề hiện tượng chính trị phổ biến nhất sẽ có 238 triệu kết quả, kinh tế xanh có 1,7 tỷ kết quả,..điều này cho thấy hiện tại mức độ thế giới quan tâm vấn đề kinh tế xanh gấp 10 lần vấn đề chính trị.

Còn ở Việt Nam, tra Google vấn đề suy thoái kinh tế có 11 triệu kết quả, kinh tế xanh bằng tiếng việt có hơn 140 triệu kết quả, chưa bao giờ có mối quan tâm kinh tế xanh nhiều thế này.

nguyen-hoa-cuong

Ông Nguyễn Hoa Cương. Ảnh: Trọng Hiếu.

Về phía viện, chúng tôi đang tham gia trình dự thảo nghị định về cơ chế thử nghiệm kinh tế tuần hoàn. Hiện tại, Bộ KH&ĐT đang xây dựng đề án phân loại hệ thống ngành kinh tế xanh, đây là nội dung rất quan trọng bởi chúng ta nói nhiều về ngành kinh tế xanh nhưng kinh tế xanh đã được quy định trong hệ thống phân ngành hay chưa?

Câu trả lời là chưa, nên không nhận diện được thì không thể xác định được có hiệu quả không, áp dụng như nào. Chúng ta cũng nói nhiều về chính sách, nhưng chúng tôi quan tâm đến việc bao nhiêu người thụ hưởng và biết về chính sách.

Vấn đề ở đây là việc ban hành chính sách đã đến được với bao nhiêu doanh nghiệp, số không biết rõ những chính sách này cực kỳ nhiều, việc hỗ trợ nhiều nhất vẫn là đào tạo, còn hỗ trợ ít nhất là tài chính, đây luôn luôn là điều khó khăn.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Tiếp theo xin mời ông Nguyễn Hải Nam, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, nhiều đại biểu thấy vấn đề là hết sức cấp bách, nhiều tổ chức trong nước và nước ngoài cũng đã đưa ra những góc nhìn về việc thiếu khuôn khổ pháp luật, ở góc độ lập pháp. Ông có thể chia sẻ các bước tiếp theo để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh?

Ông Nguyễn Hải Nam: Nhìn chung, về luật, chúng ta đã có Luật Chứng khoán, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Các tổ chức tín dụng. Tôi cho rằng trên hệ thống quy chế pháp luật và dưới sự chỉ đạo kiên quyết của Chính phủ, cùng hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước thì việc chuyển đổi xanh sẽ sớm thực hiện.

nguyen-hai-nam

Ông Nguyễn Hải Nam. Ảnh: Trọng Hiếu.

Các tổ chức quốc tế cũng bắt đầu thêm điều khoản về COP26, giới hạn khí phát thải khi phát triển dự án. Doanh nghiệp Việt Nam điển hình như Vinamilk cũng rất quan tâm đến phát triển xanh, net zero. Do vậy, tôi cho rằng sớm hay muộn Việt Nam phải đạt các cam kết quốc tế về phát thải nhà kính.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Cảm ơn ý kiến ông Nguyễn Hải Nam, xin mời ý kiến tiếp theo từ đại diện ban soạn thảo, ông có phản hồi gì ý kiến các đại biểu vừa nêu, mời ông Lại Văn Mạnh Trưởng ban Kinh tế TN&MT, Viện Chiến lược chính sách TN&MT (Bộ TN&MT).

Áp dụng danh mục phân loại xanh của ASEAN vào Việt Nam rất khó

Ông Lại Văn Mạnh: Tư duy chuyển đổi xanh mới nhưng khi đặt vào hệ thống quy định pháp luật của ta vướng quy định khác. Ví dụ, tiêu chí đánh giá các tổ chức độc lập thì có tiêu chí quốc tế nhưng rà pháp luật của ta lại không quy định để giao về xác nhận xanh. Thứ 2, có cần ban hành nghị định về cơ chế ưu đãi? Có được thì tốt.

Hiện các tổ chức phát hành trái phiếu xanh doanh nghiệp xanh phải soi vào cả Nghị định 65, 08 về phát hành trái phiếu; cùng với đó là Nghị định 08 về bảo vệ môi trường. Quốc tế cho biết là Danh mục phân loại xanh của Bộ TN&MT cũng là 1 phần để xác nhận có được ưu đãi không. Vấn đề còn là quy trình thực hiện dự án, sử dụng vốn.

Nếu có thể ban hành Nghị định riêng cả về xác nhận xanh, trái phiếu xanh, tín dụng xanh, thống nhất trong 1 văn bản sẽ rất thuận lợi. Hiện, Viện Chiến lược chính sách TN&MT sẽ nỗ lực tiếp thu ý kiến chuyên gia để trình lại Thủ tướng Chính phủ về Danh mục phân loại xanh.

nguyen-lai-manh

Ông Lại Văn Mạnh. Ảnh: Trọng Hiếu.

Vai trò của kiểm toán môi trường? Khi phân tích cũng có tính toán kiểm toán môi trường nhưng hiện vẫn chỉ là khuyến khích kiểm toán môi trường, chưa có chỉ định tổ chức nào kiểm toán môi trường. Không phải ưu đãi, hỗ trợ, là xác định Danh mục xanh? Danh mục xanh Việt Nam khác gì thế giới không? có cần đặc thù quá không? có thể làm từng bước?

Nhìn vào quy định đó, khó cho doanh nghiệp để nhận diện dự án xanh. Cần ban hành tiêu chí cụ thể hơn. Khuyến nghị tổ chức quốc tế khuyến khích mỗi nước đưa định nghĩa riêng, phù hợp tiêu chí quốc gia mình. Áp dụng danh mục phân loại xanh của ASEAN vào Việt Nam thì lại rất khó vì không có chỉ số cụ thể môi trường.

Vì vậy, xây dựng cố gắng tham vấn các tổ chức để 8,9 nhóm ngành tiệm cận danh mục của châu Âu, ASEAN, cố gắng hài hoà danh mục, cụ thể hoá tiêu chí, để vừa đồng bộ quốc tế, thể hiện đặc thù của Việt Nam. Khó hiện nay là xác nhận. Trên 90% sử dụng quy chuẩn Việt Nam là phù hợp, còn 10% là dựa vào các nước phát triển.

Danh mục là tin cậy để xem xét ban hành. Hiện chỉ có tranh luận ai là người đứng ra xác nhận dự án đó là xanh. Nếu tách ra được thì sẽ ban hành được ngay, còn phải tích hợp thì cần tiếp tục nghiên cứu.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Theo mạch này, tôi muốn được tham khảo thêm kinh nghiệm quốc tế, xin mời ý kiến TS. Nguyễn Thanh Hải, đại diện GIZ

Hầu hết đều giao cho tổ chức độc lập xác nhận tín dụng xanh, trái phiếu xanh

TS. Nguyễn Thanh Hải: Tối qua tôi nhận báo cáo 3 năm phân loại xanh của Ngân hàng Trung ước châu Âu đánh giá 3 năm phân loại xanh của EU. EU là tổ chức đầu tiên tiên phong và chuẩn bị từ năm 2016-2017, đến 2020 thì ban hành danh mục phân loại xanh. Sau đó, 35 tổ chức, quốc gia khác chạy đua để làm danh mục phân loại xanh. Đây là cơ sở để các chính sách, cơ chế, và các chương trình… dựa vào cơ sở đó.

Ngân hàng Trung ương châu âu đánh giá sau 3 năm, các hoạt động phân loại xanh châu âu chiếm 15% thị trường tài chính châu Âu, trong đó riêng thị trường châu Âu là 100.000 tỷ, nhưng vậy là chiếm 15.000 tỷ. Như vậy, tiềm năng sắp tới của EU thực thi là rất lớn. Xu thế chuyển đổi xanh không chỉ trước mắt, mà còn kéo dài đến giai đoạn 2050-2060. Việc phát triển danh mục phân loại xanh không chỉ làm một lần mà có các giai đoạn.

Ví dụ, Thái lan, Colombia… có trình độ phát triển tương ứng Việt Nam, việc phân loại xanh chậm hơn Việt Nam, nhưng đã ban hành giai đoạn 1 tháng 9/2023, và giờ họ bắt tay vào giai đoạn 2, họ cập nhật thường xuyên phù hợp xu hướng phát triển.

nguyen-thanh-hai

TS. Nguyễn Thanh Hải. Ảnh: Trọng Hiếu.

Tôi xin khẳng định danh mục của chúng ta dựa vào phân loại phân ngành kinh tế quốc tế. Việt Nam cụ thể hóa bằng quyết định 27 của Thủ tướng Chính phủ. Trên thực tế, chúng ta áp dụng phương pháp chuyển đổi làm nền để xây dựng phân loại của riêng Việt Nam.

Chúng ta có sự sáng tạo thêm danh mục phân loại sản phẩm để đảm bảo tính chất xanh của danh mục đó. Như vậy, hoàn toàn phù hợp thông lệ quốc tế. Vấn đề đang vướng mắc nằm trong thông lệ quốc tế hiện nay, khi hầu hết đều giao cho tổ chức độc lập xác nhận tín dụng xanh, trái phiếu xanh. Dù các nước khuyến khích, nhưng chiếm đến 86% tổ chức thực hiện xác nhận.

Điểm quan trọng là các dự thảo nghị định đưa ra với phương án đánh giá độc lập để xác nhận những tiêu chí. Nhưng tôi nghĩ điều vướng mắc là để một tổ chức đánh giá độc lập mà giữ uy tín thì phải có giám sát, kiểm tra, đăng ký với một cơ quan thuộc Nhà nước để tuân thủ tiêu chí. Đó là tiêu chí môi trường, tiêu chí quản lý dòng vốn…

Tuy nhiên, trước hết là danh mục phân loại xanh cần được bàn hành trước, ban hành sớm và nên theo thông lệ quốc tế và để đảm bảo chuẩn mực.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Xin cảm ơn ý kiến TS. Nguyễn Thanh Hải về những gợi ý rất cụ thể. Cá nhân tôi chia sẻ nhiều quan điểm, ý kiến của ông Nguyễn Thanh Hải. Phát biểu cuối cùng tôi muốn dành cho ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội.

Ông Phan Đức Hiếu: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý là cấp bách, không có pháp lý thì sẽ không làm được gì. Việc hoàn thiện hiểu theo 2 hướng, hoàn thiện cái mình chưa có với hình thức những khó khăn tốn về thời gian, điều này cũng quan trọng.

Tôi thấy nhiều người nói có đủ khung pháp lý, theo tôi chỉ là mình đã có, chưa nói đến chất lượng khung pháp lý sắp ban hành thế nào. Tiếp đến, cần tư duy không chỉ tín dụng, trái phiếu xanh, mà còn cả cổ phần, cổ phiếu, có cả hệ sinh thái như vậy.

phan-duc-hieu1

Ông Phan Đức Hiếu. Ảnh: Trọng Hiếu.

Về gợi ý, tôi nghĩ chúng ta làm gì cần tương thích hài hòa với quốc tế, điều này rất quan trọng, cần kế thừa phát huy độc đáo những gì của Việt Nam. Chúng ta nên tư duy làm chính sách với sự can thiệp của Nhà nước với 3 cấp độ.

Thứ nhất, Nhà nước cần hướng dẫn để doanh nghiệp làm, Nhà nước can thiệp ở mức hướng dẫn các bộ quy tắc pháp lý, chuẩn mực.

Thứ hai, mức độ cao hơn là ở thu hút các bên có liên quan là cổ đông, nhà đầu tư. Nhà nước không cần can thiệp. Trái phiếu cần các tổ chức độc lập xác định xanh để nhà đầu tư biết và mua. Nhà nước nên can thiệp mức độ vừa phải.

Thứ ba là mục tiêu chính sách Nhà nước cung cấp nguồn lực ưu đãi các dạng, thì mới tính đến cần có xác nhận hay không. Nếu chưa có ưu đãi cụ thể thì có thể ban hành Nghị định ở cấp độ thứ nhất và thứ hai để nhà đầu tư rõ và hiểu sản phẩm tài chính xanh vận hành ra sao.

Nếu chúng ta cứ nhập tất cả các mục tiêu chính sách thì khó thảo luận, bởi các mục tiêu khác nhau, giai đoạn khác nhau, chủ thế khác nhau… 

be-mac

TS. Nguyễn Anh Tuấn phát biểu kết luận kết thúc hội thảo. Ảnh: Trọng Hiếu.

TS. Nguyễn Anh Tuấn: Xin cảm ơn ý kiến ông Phan Đức Hiếu, những ý kiến rất cụ thể, thẳng thắn, phải làm sao để tìm được lối ra, đừng kéo dài tình trạng ách tắc.

Kính thưa hội thảo, trong sáng nay, chúng ta đã được nghe các tham luận, thảo luận đến từ các các chuyên gia kinh tế, đại diện doanh nghiệp, ngân hàng, đại diện ban soạn thảo, cơ quan quản lý Nhà nước. Các ý kiến trao đổi sôi nổi, thẳng thẳn, dù các đánh giá còn khác nhau, tuy nhiên từ góc độ Ban tổ chức, tôi thấy rằng nhiều câu chuyện đã được làm sáng tỏ hơn. Chúng ta đều nhận thấy rằng chuyển đổi xanh là vấn đề sống còn, bức bách.

Thời gian qua đã có một số hoạt động đáng ghi nhận như việc tín dụng xanh tăng trưởng nhanh hơn tín dụng thông thường, trái phiếu xanh cũng đã được một số tổ chức phát hành, NĐ08 được đánh giá đem lại tín hiệu tích cực trong việc phân loại xanh. Các tổ chức quốc tế cũng đã hỗ trợ ban soạn thảo rất nhiều trong việc quốc tế hóa quy định của Việt Nam - rõ ràng các quy định của chúng ta ko thể lạc lõng với quy định bên ngoài.

Các câu chuyện còn ý kiến khác nhau, như là cơ quan nào sẽ là cơ quan xác nhận dự án xanh, tính cấp thiết việc ban hành danh mục xanh,… tôi tin rằng gợi ý của các chuyên gia và phản ánh các doanh nghiệp, ngân hàng sẽ tiếp tục được thảo luận để danh mục xanh sớm ban hành. Một lần nữa xin cảm ơn các quý vị đại biểu và mong nhận được sự đồng hành trong các sự kiện tiếp theo!

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24780.00 24800.00 25120.00
EUR 26373.00 26479.00 27650.00
GBP 30737.00 30923.00 31875.00
HKD 3125.00 3138.00 3240.00
CHF 26960.00 27068.00 27905.00
JPY 160.74 161.39 168.85
AUD 15964.00 16028.00 16516.00
SGD 18134.00 18207.00 18744.00
THB 664.00 667.00 694.00
CAD 18062.00 18135.00 18669.00
NZD   14649.00 15140.00
KRW   17.74 19.35
DKK   3541.00 3672.00
SEK   2280.00 2368.00
NOK   2259.00 2348.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ