Một góc nhìn về thị trường tài chính Việt Nam

Mặc dù trong năm 2019 nền kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, rủi ro và bất ổn, nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt được nhiều kết quả tích cực.
TS. CẤN VĂN LỰC & NHÓM TÁC GIẢ VIỆN ĐÀO TẠO & NGHIÊN CỨU BIDV
25, Tháng 01, 2020 | 07:00

Mặc dù trong năm 2019 nền kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, rủi ro và bất ổn, nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt được nhiều kết quả tích cực.

nhadautu - thi truong tai chinh vietnam

Ảnh minh hoạ

Tăng trưởng GDP dự kiến đạt 7%, lạm phát được kiểm soát dưới 3%, thâm hụt ngân sách giảm về mức khoảng 3,5% GDP, tỷ lệ nợ công và nợ nước ngoài/GDP giảm dần, hoạt động xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài khả quan, tỷ giá ổn định, lãi suất có xu hướng giảm nhẹ. Trong bối cảnh đó, hệ thống tài chính vừa là nhân tố quan trọng đóng góp vào thành công chung, vừa nhận được động lực để phát triển với nhiều kết quả nổi bật, nhưng vẫn còn những vấn đề then chốt cần giải quyết trong thời gian tới.

Những kết quả đáng khích lệ

Trước hết là ba lĩnh vực thuộc thị trường tài chính (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm) đều có mức tăng trưởng khá (trên 10%) và lành mạnh hơn. Khu vực chứng khoán tăng trưởng tốt giúp cơ cấu hệ thống tài chính cân bằng hơn. Tính đến cuối tháng 11/2019, quy mô vốn hoá thị trường cổ phiếu đã đạt hơn 4,4 triệu tỷ đồng, tăng 11,6% so với cuối năm 2018, tương đương 80% GDP, vượt chỉ tiêu 70% GDP đề ra tại Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam giai đoạn 2011-2020.

Về huy động vốn từ TTCK, theo UBCK, tổng mức huy động vốn từ thị trường cổ phiếu đạt 242 ngàn tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm và dự báo đạt khoảng 300 ngàn tỷ đồng cả năm 2019.

Quy mô thị trường TPDN đến nay đạt khoảng 10% GDP (cao hơn mức 8,6% GDP của năm 2018), vượt mục tiêu 7% GDP năm 2020 của Chính phủ, quy mô thị trường TPCP tương đương 25% GDP. Kết quả này giúp tỷ lệ vốn hóa 2 thị trường cổ phiếu và trái phiếu đạt mức khoảng 115% GDP (vượt kế hoạch 100% GDP đến năm 2020 của Chính phủ).

Trong khi đó, khu vực các tổ chức tín dụng (TCTD) tăng trưởng khá tốt và chuẩn mực hơn: tín dụng cả năm 2019 ước tăng khoảng 13%. Bước điều chỉnh lại trong nhịp tăng trưởng tín dụng năm 2019 được đánh giá là cần thiết sau những năm tăng trưởng nóng vừa qua với mức tăng bình quân 15-16%/năm và tỷ lệ tín dụng/GDP đã lên đến 133% cuối năm 2018 (tương đối cao so với mức độ phát triển và thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam).

Quy mô khu vực bảo hiểm còn nhỏ bé song tốc độ tăng trưởng tốt. Theo Hiệp hội Bảo hiểm, đến hết tháng 11/2019, tổng tài sản của các doanh nghiệp bảo hiểm đạt 456.823 tỷ đồng, tăng 20,2% so với đầu năm; đầu tư trở lại nền kinh tế đạt 379.240 tỷ đồng, tăng 20%; tổng doanh thu phí bảo hiểm đạt 140.911 tỷ đồng, tăng 20,5% so với đầu năm.

Hai là các yếu tố vĩ mô về tài khóa, tiền tệ đã và đang được củng cố, với những tấm đệm (buffer) vững chắc hơn, được quốc tế ghi nhận. Trong năm 2019, lãi suất liên ngân hàng nhìn chung ổn định với xu hướng đi xuống là chủ yếu. Lãi suất cho vay cơ bản ổn định, lãi suất huy động có xu hướng tăng nhẹ trong 10 tháng đầu năm và đồng loạt giảm nhẹ sau động thái hạ trần lãi suất huy động của NHNN vào tháng 11/2019. Tỷ giá tiếp tục ổn định, giá trị đồng VND được nâng cao, đến hết ngày 25/12/2019, tỷ giá giao dịch gần như không thay đổi, tỷ giá trung tâm tăng 1,48% so với đầu năm.

Dự trữ ngoại hối cao kỷ lục (ở mức khoảng 73 tỷ USD vào cuối tháng 10/2019, tương đương 15,5 tuần nhập khẩu). Khu vực TCTD cơ cấu lại tín dụng theo hướng tăng trưởng tín dụng tập trung vào các ngành sản xuất, lĩnh vực ưu tiên và giảm tín dụng vào những ngành rủi ro. Đồng thời, Chính phủ đã kiểm soát khá tốt các yếu tố làm gia tăng nợ công bao gồm giảm bội chi ngân sách từ mức cao 6,28% GDP năm 2015 và 5,52% năm 2016 xuống khoảng 3,4% GDP cuối năm 2019). Năm 2019 tỷ lệ nợ công/GDP khoảng 56,1%, giảm so với mức 62-64% giai đoạn 2016-2018. Nhờ đó, xếp hạng thị trường tài chính Việt Nam năm 2019 tăng 3,5 điểm và tăng 10 bậc (theo WEF). 

Ba là, hệ thống tài chính hoạt động ngày càng lành mạnh, an toàn, chuẩn mực hơn và tiệm cận thông lệ quốc tế. Đến nay, đã có 18 ngân hàng thương mại (NHTM) được NHNN công nhận đáp ứng chuẩn Basel II về tỷ lệ an toàn vốn. Kết quả xử lý nợ xấu tiếp tục khả quan, đặc biệt từ khi có sự ra đời của Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của Quốc Hội (hiệu lực từ ngày 15/8/2017). Theo NHNN, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 8/2019 là 1,98%. Tỷ lệ nợ xấu gộp (gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa xử lý vànợ xấu tiềm ẩn) ở mức 4,84%, giảm mạnh so với mức10,08% cuối năm 2016 và mức 5,85% cuối năm 2018. Về hiệu quả hoạt động, đến hết tháng 11/2019, giá cổ phiếu của nhóm các NHTM và công ty bảo hiểm niêm yết tăng gần 15%. 

Bốn là, hành lang pháp lý dần được hoàn thiện. Có thể thấy, hệ thống pháp luật chi phối lĩnh vực tài chính-ngân hàng ngày càng hoàn thiện, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển ổn định và bền vững của hệ thống. Trong năm 2019, Luật chứng khoán sửa đổi và Luật kinh doanh bảo hiểm sửa đổi đã được Quốc hội thông qua, cùng với đó là Quyết định số 242/QĐ-TTg (2019) phê duyệt Đề án cơ cấu lại TTCK và bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025, Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Chỉ thị số 06/CT-TTg (2019)về tăng cường giải pháp đảm bảo an toàn QTDND và hàng loạt các Nghị định khác, Thông tư hướng dẫn triển khai thực hiện.

Năm là, xu hướng tài chính số, đặc biệt là Fintech, ngân hàng số phát triển nhanh: theo NHNN, 94% ngân hàng Việt Nam bắt đầu triển khai hoặc xây dựng chiến lược chuyển đổi số. Hệ sinh thái ngân hàng dần hình thành, theo đó, hệ sinh thái ngân hàng Việt Nam tập trung vào lớp dịch vụ lõi ngân hàng và bước đầu có lớp dịch vụ hệ sinh thái ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt phát triển nhanh với nhiều sản phẩm, tiện ích ngân hàng mới, hiện đại dựa trên ứng dụng công nghệ (đến hết tháng 8/2019, tổng giá trị giao dịch qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đạt trên 104 triệu giao dịch, tăng 19,57% về số lượng và 26,66% về giá trị giao dịch so với cùng kỳ năm 2018).

Thách thức tồn tại

Một là, rủi ro, thách thức từ bên ngoài: xu hướng suy giảm kinh tế toàn cầu sẽ ảnh hưởng đáng kế đến kinh tế trong nước do Việt Nam là nước có độ mở lớn trên thế giới (tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2019 tương đương 200% GDP). Theo WB, kinh tế thế giới tăng trưởng khoảng 2,5% năm 2019 (giảm từ mức 2,8% năm 2018), và dự báo tăng khoảng 2,6% năm 2020.

Hai là, vẫn còn mất cân đối trong hệ thống tài chính Việt Nam khi khu vực TCTD vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản hệ thống và đảm nhận cả vai trò chính trong cung ứng vốn cho nền kinh tế, tiềm ẩn rủi ro về kỳ hạn, thanh khoản và tín dụng (do qui mô tín dụng khá lớn và gần 50% nguồn vốn trung-dài hạn vẫn từ hệ thống TCTD).

Ba là, rủi ro tiềm ẩn từ thị trường TPDN: thị trường TPDN trong năm 2019 phát triển rất mạnh mẽ song tiềm ẩn nhiều rủi ro do còn thiếu minh bạch thông tin, chưa thống nhất đầu mối quản lý, xuất hiện hiện tượng phát vỡ mặt bằng lãi suất (nhiều doanh nghiệp phát hành trái phiếu với lãi suất lên tới 14%, thậm chí 20%/năm).

Bốn là, thể chế hệ thống tài chính còn một số bất cập, cần sớm hoàn thiện. Đó là, (i) Chưa có Nghị định về thị trường mua-bán nợ; (ii) Vẫn còn một số vướng mắc liên quan đến giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn, nộp thuế và phí liên quan đến sang tên tài sản bảo đảm… theo Nghị quyết 42 của Quốc hội; (iii) Chưa có khung pháp lý quản lý, giám sát đối với tập đoàn tài chính; (iv) Một số mô hình kinh doanh mới trên nền tảng công nghệ (cho vay ngang hàng, Fintech, huyđộng vốn cộng đồng, tiền kỹ thuật số, xác thực điện tử E-KYC...) chưa có hành lang pháp lý, (v) Cần hoàn thiện một số qui định pháp lý theo yêu cầu hội nhập (CPTPP, EVFTA…).

Năm là, các NHTM gặp khó khăn trong tăng vốn. Theo công bố của NHNN, hệ số an toàn vốn (CAR) của toàn hệ thống đến cuối tháng 9/2019 đạt 12,02% giảm nhẹ so với mức 12,14% cuối năm 2018. Bắt đầu từ năm 2020 khi các NHTM cần tuân thủ Thông tư số 41 (2016) của NHNN, khi hệ số CAR của các NHTM Việt Nam cần tính toán đầy đủ theo chuẩn Basel II, thì hệ số CAR của các NHTM sẽ thấp hơn khá nhiều. Trong khi đó, nhiều NHTM Việt Nam đang đối mặt với những thách thức lớn trong tăng vốn.

Sáu là, rủi ro an ninh mạng ngày càng tăng: Theo Bộ Thông tin - Truyền thông, trong 9 tháng đầu năm 2019, có đến gần 3.500 sự cố tấn công mạng ở Việt Nam, tăng 104% so cùng kỳ, nhiều cuộc tấn công nhắm vào ngân hàng. Trong khi chỉ có 25% tổ chức có khả năng ghi nhận tấn công mạng và có đến 30% doanh nghiệp chi đầu tư cho an toàn thông tin dưới 10% trong tổng đầu tư về CNTT.

Bảy là, vấn đề giám sát, an toàn hệ thống còn bất cập, chủ yếu gồm: (i) giám sát, ổn định tài chính-tiền tệ do nhiều nơi đảm trách, còn thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, (ii) vai trò của Uỷ ban Giám sát tài chính Quốc gia và Bảo hiểm Tiền gửi còn mờ nhạt, (iii) chưa có cơ chế, qui trình quản lý và giám sátcác tập đoàn tài chính và sản phẩm bán chéo, (iv) rủi ro hệ thống (có tính lan truyền) chưa được kiểm soát chặt chẽ, chưa có cơ chế xử lý khủng hoảng, (v) hoạt động thanh tra, giám sát vẫn chủ yếu theo phương thức giám sát hành chính, thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro (risk-based supervision) chưa nhiều, (v) thiếu nguồn lực cần thiết để thực hiện, và (vi) chế tài, cưỡng chế còn chưa đủ mạnh, dẫn đến vi phạm còn lặp lại…v.v.

Xu hướng thị trường tài chính năm 2020

Trong năm 2020, thị trường tài chính Việt Nam sẽ hoạt động theo những xu hướng chính như sau: (i) Qui định pháp lý ngày càng hoàn thiện và theo hướng chặt chẽ hơn trong đó tập trung vào triển khai các văn bản pháp luật đã được ban hành trong năm 2019 như: Luật Chứng khoán sửa đổi, Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi (2019), Quyết định số 242 của Chính phủ, Chỉ thị 06 của Thủ tướng, Quyết định 986/QĐ-TTg (2018), Chiến lược tài chính toàn diện, Nghị định 88(2019) của Chính phủ, Thông tư 22/2019/TT-NHNN,Thông tư 41/2016/TT-NHNN … (ii) Xu hướng phát triển tài chính số, đặc biệt là ngân hàng số, Fintech mạnh mẽ hơn trong năm 2020; (iii) Xu hướng tái cơ cấu các ĐCTC được đẩy mạnh: năm 2020 là năm chốt thực hiện các Đề án, kế hoạch 5 năm, điều này đòi hỏi công cuộc tái cơ cấu các ĐCTC gắn với yêu cầu lành mạnh hóa hoạt động cần triển khai quyết liệt hơn và có kết quả cụ thể; (iv) Áp lực cạnh tranh gia tăng từ nước ngoài và trong nước; (v) Xu thế hợp tác, kết nối và liên kết gia tăng: theo đó, hợp tác giữa ngân hàng bảo hiểm (banca-assurance), giữa ngân hàng-chứng khoán (tăng nghiệp vụ ngân hàng đầu tư - investment banking), ĐCTC - Fintech và Bigtech, ĐCTC - Regtech nhằm đảm bảo hiệu quả tuân thủ, giữa ĐCTC và các tổ chức khác tạo hệ sinh thái với ĐCTC làm trung tâm,trong đó môi trường ngân hàng mở (open banking) bắt đầu hình thành…v.v; (vi) Xu hướng tăng đầu tưcho phân tích dữ liệu lớn (big data analytics) và an ninh mạng. 

Một số kiến nghị

Việt Nam cần ưu tiên khẩn trương hoàn thiện thể chế hệ thống tài chính; trong đó, cần tập trung: (i) ban hành Nghị định về thị trường mua bán nợ, tháo gỡ vướng mắc liên quan đến xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Quốc Hội; (ii) sửa Luật NHNN (2010) theo hướng tăng dần tính độc lập của NHNN, sửa Luật các TCTD (2010, 2017) nhằm tăng tính tự chủ, tính thị trường và minh bạch của các TCTD; (iii) sửa Luật Bảo hiểm tiền gửi (2012) theo hướng tăng vai trò, trách nhiệm của Bảo hiểm tiền gửi cũng như hạn mức đền bù cho phù hợp bối cảnh mới. Đồng thời, (iv) bổ sung luật định chi phối hoạt động quản lý, giám sát tập đoàn tài chính, một số mô hình kinh doanh mới trên nền tảng công nghệ, kể cả khung pháp lý thử nghiệm (Sandbox).

Chú trọng nâng cao năng lực quản lý, giám sát, an toàn và ổn định hệ thống tài chính-tiền tệ: các cơ quan quản lý, giám sát cần độc lập và được trao quyền nhiều hơn; chú trọng xây dựng mô hình quản lý-giám sát rủi ro hệ thống, mô hình ổn định tài chính-tiền tệ và cơ chế xử lý khủng hoảng; làm rõ và tăng vai trò của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia và Bảo hiểm tiền gửi; nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý, giám sát, ổn định hệ thống tài chính tiền tệ. Đồng thời,đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu và nâng cao năng lực của các ĐCTC; nâng cao và phát huy vai trò của các Hiệp hội ngành nghề.

Đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu thị trường tài chính và các ĐCTC, lành mạnh hóa các ĐCTC hướng tới đạt chuẩn thông lệ quốc tế. Tăng cường thanh tra ,giám sát; thực thi chế tài nghiêm minh đối với các vi phạm trên thị trường. Tiếp tục phát triển, đa dạng hóa sản phẩm-dịch vụ chứng khoán; tiếp tục nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách (nhất là giữa CSTT vàCSTK) nhằm đạt hiệu quả trong chính sách lãi suất, vốn trung dài hạn; và thúc đẩy tiến trình nâng hạng của TTCK Việt Nam. Thực hiện quyết liệt các biện pháp tháo gỡ khó khăn về vốn chủ sở hữu cho các NHTM, đặc biệt là các NHTM có sở hữu Nhà nước chi phối, giảm thiểu thủ tục hành chính trong xét duyệt phương án bán chiến lược, đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa Agribank, cho phép giữ lại cổ tức, phát hành cổ phiếu cho CBNV(ESOP) …; xây dựng cơ chế lâu dài về biện pháp tăng vốn cho các NHTM (thay vì xem xét từng năm một) nhằm giảm thiểu thủ tục hành chính.

Tổ chức triển khai hiệu quả Chiến lược tài chính toàn diện, trong đó tập trung vào các giải pháp như:(i) phát triển đa dạng các kênh phân phối (ii) đồng bộ và nhất quán thực hiện các giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt; (iii) tăng cường năng lực các định chế tài chính đặc biệt như Ngân hàng Hợp tác xã, Ngân hàng Chính sách xã hội, Quỹ TDND, Tổ chức tài chính vi mô…; (iv) phát triển cơ sở hạ tầng tài chính; (v) xây dựng và thực thi chiến lược giáo dục tài chính… Có khung chính sách và biện pháp cụ thể nhằm hạn chế rủi ro hệ thống và màng lưới an toàn hệ thống: (i) nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách của các cơ quan quản lý trong lĩnh vực này, (ii) nâng cao năng lực (nhất là về nhân lực, công nghệ, cơ sở dữ liệu…) của các cơ quan quản lý, (iii) nâng cao năng lực, quyền năng, tính độc lập của các cơ quan giám sát song vẫn đảm bảo tăng khả năng phối kết hợp, trong đó cần có cơ chế xử lý khủng hoảng, và (iv) tăng khảnăng chống chịu của hệ thống tài chính đối với các cú sốc bên ngoài. 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ