Lãi suất huy động cao nhất của 4 ông lớn ngân hàng chỉ còn 5,8%/năm

Nhàđầutư
Trước yêu cầu giảm lãi suất liên tục của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất huy động ở nhiều kỳ hạn. Hiện lãi suất kỳ hạn 12 tháng của đa số các ngân hàng thương mại chỉ bằng 1/2 so với mức lãi suất cuối năm 2022.
ĐÌNH VŨ
24, Tháng 08, 2023 | 10:20

Nhàđầutư
Trước yêu cầu giảm lãi suất liên tục của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất huy động ở nhiều kỳ hạn. Hiện lãi suất kỳ hạn 12 tháng của đa số các ngân hàng thương mại chỉ bằng 1/2 so với mức lãi suất cuối năm 2022.

ngan-hang-viet-nam

Các ông lớn ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay xuống mức 5,8%/năm. Ảnh: Minh hoạ

Ngày 23/8, Vietcombank, BIDV, VietinBank, Agribank đã công bố biểu lãi suất huy động mới giảm mạnh ở nhiều kỳ hạn.

Theo đó, bốn ông lớn ngân hàng trên điều chỉnh lãi suất từ 0,3 - 0,5 điểm % ở nhiều kỳ hạn và trở thành nhóm ngân hàng có lãi suất thấp nhất hệ thống. Lãi suất huy động cao nhất xuống còn 5,8%/năm, thay vì mức 6,3%/năm như trước đó, áp dụng cho kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.

Lãi suất kỳ hạn 1 và 3 tháng cũng giảm 0,3 điểm % xuống còn 3%/năm và 3,8%/năm; kỳ hạn 6 tháng còn 4,7%/năm.

Tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), lãi suất các kỳ hạn cũng giảm từ 0,3 - 0,5%/năm. Tuy nhiên mức cao nhất 5,8%/năm chỉ áp dụng cho kỳ hạn 12 tháng.

Trước đó, một số ngân hàng như Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB), Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) hay Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) cũng đã giảm sâu lãi suất huy động.

Theo đó, lãi suất cao nhất tại Eximbank chỉ còn 5,9%/năm; ACB còn 6,2%/năm. Lãi suất kỳ hạn 12 tháng tại VIB, MB chỉ từ 6 - 6,1%/năm.

Hiện nay, lãi suất huy động phổ biến được hầu hết các ngân hàng niêm yết từ 6 - 6,9%/năm. 

Lãi suất huy động là điều kiện để các ngân hàng giảm lãi suất cho vay hỗ trợ nền kinh tế.

Tiếp tục giảm lãi suất điều hành

Trong thời gian vừa qua, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước liên tục có những chỉ đạo nhằm hạ mặt bằng lãi suất cho vay. Hạ lãi suất huy động giúp tạo điều kiện cho lãi suất cho vay đi xuống.

Trong văn bản chỉ đạo mới nhất, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay đối với đối với các khoản vay đang còn dư nợ hiện hữu và các khoản cho vay mới, phấn đấu mức giảm lãi suất tối thiểu từ 1,5%-2%/năm theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.

Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng báo cáo cam kết giảm lãi suất cho vay trong năm 2023 đối với các khoản cho vay đang còn dư nợ hiện hữu và các khoản vay mới trước ngày 25/8.

Tại hội thảo mới đây do Ngân hàng Nhà nước tổ chức nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp, ông Ngô Tấn Long, PTGĐ ACB nhận định, lãi suất cho vay thời gian tới sẽ giảm nhanh. Hiện nay, ACB đang áp dụng mức lãi suất cho vay ngắn hạn dưới 7%/năm và lãi suất trung, dài hạn ở mức 8,5%/năm.

Chia sẻ về dư địa giảm lãi suất điều hành trong thời gian tới, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, NHNN sẽ cân nhắc hạ lãi suất điều hành.

Đại diện NHNN cho biết, thực tế việc hạ lãi suất điều hành của cơ quan quản lý thời điểm hiện tại cũng không tác động quá nhiều tới các NHTM, vì thanh khoản đang dư thừa nên các NHTM sẽ không phải vay nhiều từ NHNN.

Theo đó, Phó Thống đốc nhấn mạnh, ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp nhưng ngoài mục đích kinh doanh tiền tệ, còn có trách nhiệm xã hội. Vì vậy, NHNN sẽ tiếp tục sát sao hơn nữa với từng nhóm ngân hàng để yêu cầu tiếp tục cắt giảm các loại chi phí để hạ lãi suất cho vay và cắt giảm các thủ tục hành chính nhằm đơn giản hoá quy trình tiếp cận vốn của DN.

Phó Thống đốc khẳng định, trong thời gian tới NHNN sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hợp lý, phù hợp với bối cảnh Việt Nam. 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25154.00 25454.00
EUR 26614.00 26721.00 27913.00
GBP 31079.00 31267.00 32238.00
HKD 3175.00 3188.00 3293.00
CHF 27119.00 27228.00 28070.00
JPY 158.64 159.28 166.53
AUD 16228.00 16293.00 16792.00
SGD 18282.00 18355.00 18898.00
THB 667.00 670.00 698.00
CAD 18119.00 18192.00 18728.00
NZD   14762.00 15261.00
KRW   17.57 19.19
DKK   3574.00 3706.00
SEK   2277.00 2364.00
NOK   2253.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ