Đề xuất luật hoá Nghị quyết xử lý nợ xấu

Nhàđầutư
Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ phân công nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan nghiên cứu, đề xuất nội dung luật hóa Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu; cùng với việc tổng kết, sửa đổi, hoàn thiện Luật Các TCTD và các luật khác có liên quan, trình Quốc hội chậm nhất tại kỳ họp đầu năm 2023.
ĐÌNH VŨ
24, Tháng 05, 2022 | 11:54

Nhàđầutư
Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ phân công nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan nghiên cứu, đề xuất nội dung luật hóa Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu; cùng với việc tổng kết, sửa đổi, hoàn thiện Luật Các TCTD và các luật khác có liên quan, trình Quốc hội chậm nhất tại kỳ họp đầu năm 2023.

nguyen-thi-hong

Bà Nguyễn Thị Hồng, Thống đốc NHNN. Ảnh: Quochoi.vn

Ngày 23/5, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XV, Chính phủ đã có báo cáo tổng kết Nghị quyết số 42 và đề xuất việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42.

Thay mặt Chính phủ, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, trải qua gần 5 năm triển khai trong thực tiễn, các mục tiêu, yêu cầu của Nghị quyết số 42 về cơ bản đã đạt được.

Cụ thể, Nghị quyết số 42 đã tạo lập khuôn khổ pháp lý để xử lý các khoản nợ xấu, góp phần tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, hỗ trợ các TCTD trong việc xử lý nợ xấu và duy trì tỷ lệ nợ xấu nội bảng dưới mức 2%; Từng bước đảm bảo quyền của chủ nợ trong xử lý nợ xấu, thể hiện tính đúng đắn về định hướng, chính sách của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đối với công tác xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD; Tác động tích cực đến quá trình cơ cấu lại, phát triển của hệ thống các TCTD. Nhờ đó, các TCTD có điều kiện hạ mặt bằng lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, đặc biệt trong giai đoạn chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.

Lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/12/2021, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu theo Nghị quyết số 42. Trong đó, có 148 nghìn tỷ đồng là do khách hàng tự trả nợ (chiếm 38,93%), cao hơn so với mức 22,8% trung bình năm từ 2012 - 2017. Đồng thời, kết quả xử lý, bán, phát mại TSBĐ để thu hồi nợ của TCTD và VAMC đạt 77,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 20,3%. Tính trung bình nợ xấu đã xử lý đạt khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn mức trung bình 3,25 nghìn tỷ đồng/tháng trong giai đoạn trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực (từ năm 2012 – 2017).

Tuy nhiên, đến hết ngày 15/8/2022, toàn bộ cơ chế về xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 sẽ không được áp dụng. Theo đó, việc xử lý nợ xấu của TCTD sẽ gặp phải tình trạng: Kéo dài quá trình xử lý nợ xấu; Không khuyến khích, huy động được các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia công tác xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các TCTD. 

Theo đó, Chính phủ đề xuất Quốc hội: Thông qua việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42 đến ngày 31/12/2023; đưa nội dung này vào Nghị quyết chung của kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV; Giao Chính phủ nghiên cứu, đề xuất nội dung cần luật hóa quy định về xử lý nợ xấu cùng với việc rà soát, hoàn thiện Luật Các TCTD và các luật có liên quan đến xử lý nợ xấu và TSBĐ, trình Quốc hội chậm nhất vào kỳ họp đầu năm 2023.

79FFEA4B-F605-4F32-8523-D8BD4ABC2F5E

Ông Vũ Hồng Thanh, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội. Ảnh: Quochoi.vn

Tại phiên họp, ông Vũ Hồng Thanh, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc Hội cho biết, đa số ý kiến trong Uỷ ban thống nhất với sự cần thiết kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42; Các chính sách xử lý nợ xấu cần được tiếp tục duy trì, nhất là trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp và những bất ổn chính trị trên thế giới sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, nợ xấu của các TCTD có khả năng tiếp tục tăng trong thời gian tới, nguy cơ làm mất đi những thành quả đã đạt được. Theo đó, sẽ kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42 đến hết ngày 31/12/2023 và đưa nội dung này vào Nghị quyết chung của kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV.

Tuy nhiên, Uỷ ban Kinh tế cũng đánh giá, kết quả xử lý nợ xấu chưa thực sự vững chắc, thực trạng nợ xấu cho thấy nền kinh tế vẫn tiềm ẩn rủi ro; một số biện pháp áp dụng theo Nghị quyết số 42 chưa phát huy hiệu quả (như áp dụng thủ tục rút gọn tại tòa án...). Đối với nợ xấu nói chung, xử lý bằng dự phòng rủi ro còn chiếm tỷ lệ cao; một số lĩnh vực có số nợ xấu chiếm tỷ trọng cao so với nợ xấu của toàn hệ thống như: bất động sản (chiếm 18,4%); cho vay tiêu dùng (chiếm 25,8%); BOT, BT giao thông (3,92%).... Do đó, việc xây dựng khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu và TSBĐ trong thời gian tới là hết sức cần thiết. Trong đó cần nghiên cứu kỹ lưỡng trên cơ sở kế thừa các quy định phát huy được hiệu quả của Nghị quyết số 42, giải quyết được những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực thi cũng như đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, tạo được động lực thúc đẩy xử lý nợ xấu của nền kinh tế và phát triển hơn nữa thị trường mua, bán nợ xấu trong tương lai.

Vì vậy, Uỷ ban Kinh tế đề nghị Chính phủ phân công nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan nghiên cứu, đề xuất nội dung luật hóa cùng với việc tổng kết, sửa đổi, hoàn thiện Luật Các TCTD và các luật khác có liên quan đến xử lý nợ xấu và TSBĐ, trình Quốc hội chậm nhất vào kỳ họp đầu năm 2023.

Trước áp lực nợ xấu của các TCTD dự báo sẽ gia tăng trong thời gian tới, Uỷ ban Kinh tế cũng đề nghị Chính phủ, NHNN: Có các giải pháp để hướng dòng vốn tín dụng vào khu vực sản xuất, kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng “nóng” vào các tài sản tiềm ẩn rủi ro cao, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong hoạt động cho vay, đầu tư vào các tài sản này;

Xây dựng các kịch bản ứng phó linh hoạt với những biến động của thị trường tiền tệ thế giới nhằm bảo đảm nguồn vốn được khơi thông;

Tiếp tục chỉ đạo các TCTD tăng cường tính minh bạch, nâng cao khả năng quản trị điều hành, quản trị rủi ro, tăng cường năng lực tài chính nhằm bảo đảm các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về an toàn vốn và quản trị vốn;

Cuối cùng, tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức về xử lý nợ xấu đến các tầng lớp nhân dân để khách hàng và các bên liên quan trong công tác xử lý nợ có ý thức và chủ động thực hiện.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24580.00 24600.00 24920.00
EUR 26357.00 26463.00 27630.00
GBP 30835.00 31021.00 31972.00
HKD 3103.00 3115.00 3216.00
CHF 27309.00 27419.00 28280.00
JPY 159.57 160.21 167.65
AUD 15861.00 15925.00 16411.00
SGD 18096.00 18169.00 18709.00
THB 668.00 671.00 699.00
CAD 17899.00 17971.00 18502.00
NZD   14713.00 15204.00
KRW   17.70 19.32
DKK   3542.00 3674.00
SEK   2326.00 2418.00
NOK   2280.00 2371.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ