Các doanh nghiệp thép châu Á hưởng lợi từ tính toán sai của đồng nghiệp Trung Quốc

Dự báo nhu cầu giảm nên hầu hết các nhà sản xuất thép tại Trung Quốc đã thực thi chiến lược cắt giảm sản lương, bao gồm đóng nhiều cơ sở sản xuất thép công nghệ cũ có hại cho môi trường, nhưng đây là một tính toán sai khiến cho lượng nhập khẩu thép của Trung Quốc tăng vọt thời gian gần đây.
VŨ DUY BẮC
03, Tháng 03, 2021 | 07:40

Dự báo nhu cầu giảm nên hầu hết các nhà sản xuất thép tại Trung Quốc đã thực thi chiến lược cắt giảm sản lương, bao gồm đóng nhiều cơ sở sản xuất thép công nghệ cũ có hại cho môi trường, nhưng đây là một tính toán sai khiến cho lượng nhập khẩu thép của Trung Quốc tăng vọt thời gian gần đây.

1-7238

Ảnh: Internet.

Nhu cầu tăng mạnh...

Trung Quốc là một quốc gia có tác động mạnh trên thị trường thép toàn cầu và chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của nước này cũng có thể tác động mạnh đến thị trường thép toàn cầu.

Theo Hiệp hội Thép Thế giới, nhu cầu của Trung Quốc đạt 980 triệu tấn vào năm 2020, gấp hơn 10 lần nhu cầu ở Ấn Độ, một nước tiêu thụ thép lớn khác.

Giá thép cuộn cán nóng được sử dụng trong nhiều loại sản phẩm từ thiết bị gia dụng đến ô tô, vẫn ở mức trên 700 USD/tấn trong năm nay ở Đông Á, cao hơn 60% so với mức đáy gần đây vào tháng 5/2020 và cao nhất kể từ năm 2011.

Bắc Kinh cho rằng, bất chấp nhu cầu tăng gần đây, nhưng tình trạng dư thừa nguồn cung vẫn hiện hữu, nên tiếp tục thúc đẩy các cơ sở cũ phải đóng cửa và nâng cấp. Chính phủ Trung Quốc đã yêu cầu các nhà sản xuất thép cắt giảm công suất từ ​​25% đến 50%.

Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc dự kiến, ​​nhu cầu lớn hiện tại được thúc đẩy bởi đầu tư cơ sở hạ tầng sẽ đạt đỉnh vào khoảng năm 2023. Nhưng xu hướng nhập khẩu thép từ nước ngoài sẽ tiếp tục trong bao lâu hiện vẫn chưa rõ ràng.

... Nhưng nguồn cung trong nước sụt giảm

Trong khi nhu cầu tăng mạnh, nguồn cung trong nước lại sụt giảm khi các các nhà sản xuất lớn của Trung Quốc như Tập đoàn thép Baowu đã cắt giảm sản lượng kể từ đầu năm 2020 vì dự kiến ​​nhu cầu sẽ giảm do đại dịch Covid.

Tuy nhiên, các biện pháp kích thích nền kinh tế của Bắc Kinh đã dẫn đến nhu cầu tăng mạnh ngoài dự báo của các nhà sản xuất trong nước, khiến họ không theo kịp. Điều này khiến Trung Quốc phải đẩy mạnh nhập khẩu thép từ tháng 6/2020 đến tháng 9/2020.

Theo cơ quan hải quan Trung Quốc, nhập khẩu thép của Trung Quốc năm 2020 đã tăng 150%, lên 38,56 triệu tấn.

1-575

 

Năng lực sản xuất thép tổng thể của Trung Quốc dường như cũng giảm. Theo Chính phủ Trung Quốc, nước này đã loại bỏ công suất sản xuất trị giá 150 triệu tấn từ năm 2016 đến năm 2018, tương đương hơn 10% so với năng lực sản xuất vào cuối năm 2015.

Hầu hết những gì Trung Quốc nhập khẩu vào năm 2020 là các sản phẩm thép rẻ hơn cho xây dựng và các mục đích sử dụng khác, với giá nhập khẩu trung bình giảm 35% xuống 630 USD/tấn, thấp hơn đáng kể so với giá xuất khẩu trung bình là 791 USD/tấn.

Xu hướng này cho thấy, các nhà sản xuất thép Trung Quốc đang tập trung nhiều hơn vào các sản phẩm chuyên biệt và có giá trị gia tăng cao, như những sản phẩm được sử dụng trong sản xuất ô tô và phụ thuộc vào các nguồn nước ngoài cho các mặt hàng mục đích chung.

Ngoài ra, trước thực trạng dư thừa nguồn cung trong nước, một số nhà sản xuất thép của Trung Quốc đã chuyển dây chuyền sản xuất ra các nước khác trong khu vực.

Tập đoàn Tsingshan, nhà sản xuất thép không gỉ lớn nhất thế giới hợp tác với các đối tác trong nước và Indonesia đã đưa một lò cao tại Indonesia vào tháng 3/2020.

Ngoài ra, theo Liên đoàn Sắt thép Nhật Bản, các nhà sản xuất thép Trung Quốc có kế hoạch xây dựng công suất sản xuất mới trị giá 30 triệu tấn ở Đông Nam Á.

Những khoản đầu tư này vào Đông Nam Á một phần được thúc đẩy bởi nhu cầu ngày càng tăng trong khu vực và một phần là do các quy định chặt chẽ hơn của chính quyền Trung Quốc nhằm ngăn chặn tình trạng dư thừa nguồn cung.

Các nhà sản xuất thép châu Á hưởng lợi

Nhu cầu nhập khẩu thép tăng mạnh của Trung Quốc đã đem lại nhiều lợi ích cho các nhà sản xuất thép châu Á. Nhiều nhà sản xuất thép trong khu vực ghi nhận mức lợi nhuận tăng trưởng đột biến.

Cụ thể, Tập đoàn Hòa Phát của Việt Nam ghi nhận lợi nhuận ròng tăng 80% trong năm 2020 lên 13.500 tỷ đồng (587 triệu USD) sau khi xuất khẩu của HPG tăng gấp đôi. HPG cũng cho biết, hầu hết các chuyến hàng xuất khẩu ra nước ngoài đều đến Trung Quốc.

Các nhà sản xuất thép của Việt Nam từ lâu đã phải chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ nguồn hàng giá rẻ từ Trung Quốc, nhưng xu hướng này đã đảo ngược vào năm 2020, khi xuất khẩu thép sang Trung Quốc tăng hơn 9 lần lên 3,35 triệu tấn.

Tương tự, năm 2020, xuất khẩu thép của Ấn Độ sang Trung Quốc cũng tăng gấp 15 lần so với 2019 lên 5,08 triệu tấn. Trong đó, Tata Steel đã báo cáo lợi nhuận ròng là 39,8 tỷ rupee (tương đương 540 triệu USD) trong quý IV/2020 so với khoản lỗ 11,6 tỷ rupee năm 2019.

Các nhà sản xuất thép Nhật Bản cũng nhanh chóng khai thác nhu cầu của Trung Quốc. Nhà sản xuất thép Tokyo Steel Manufacturing đã nối lại xuất khẩu sang Trung Quốc lần đầu tiên sau một thập kỷ vào tháng 7/2020.

"Các nhà chế biến thép nhỏ hơn ở Trung Quốc cũng đang mua nhiều thép thành phẩm hơn", Kiyoshi Imamura, Giám đốc điều hành Tokyo Steel Manufacturing cho biết.

Đánh giá về nhu cầu thép của Trung Quốc trong năm nay, một giám đốc điều hành trong ngành cho biết, nhu cầu đối với các sản phẩm thép của Trung Quốc vẫn ở mức cao vào năm 2021. Tuy nhiên, rủi ro với các nhà sản xuất thép của Trung Quốc và khu vực luôn hiện hữu.

“Nếu nhu cầu trong nước của Trung Quốc giảm, tình trạng dư thừa sẽ trở lại và có nguy cơ các sản phẩm thép dư thừa này sẽ tràn vào các thị trường khác một lần nữa", Atsushi Yamaguchi của SMBC Nikko Securities cho biết.

(Theo Đầu tư Chứng khoán)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24620.00 24635.00 24955.00
EUR 26213.00 26318.00 27483.00
GBP 30653.00 30838.00 31788.00
HKD 3106.00 3118.00 3219.00
CHF 26966.00 27074.00 27917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15849.00 15913.00 16399.00
SGD 18033.00 18105.00 18641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17979.00 18051.00 18585.00
NZD   14568.00 15057.00
KRW   17.62 19.22
DKK   3520.00 3650.00
SEK   2273.00 2361.00
NOK   2239.00 2327.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ