Bi quan viễn cảnh lợi nhuận doanh nghiệp

Nhàđầutư
Lợi nhuận doanh nghiệp được dự báo sẽ giảm đáng kể trong nửa cuối năm, trong bối cảnh dịch bệnh chưa thể sớm kiểm soát.
NHẬT HUỲNH
06, Tháng 08, 2021 | 16:56

Nhàđầutư
Lợi nhuận doanh nghiệp được dự báo sẽ giảm đáng kể trong nửa cuối năm, trong bối cảnh dịch bệnh chưa thể sớm kiểm soát.

Screen Shot 2021-08-06 at 4.43.31 PM

Ảnh: Trọng Hiếu

Tác động tiêu cực của đợt dịch COVID-19 lần thứ 4 đối với cộng đồng doanh nghiệp đang ngày càng nghiêm trọng.

Số ca nhiễm tăng vọt dẫn tới các biện pháp giãn cách xã hội đẩy chi phí tăng cao, lưu thông hàng hóa tắc nghẽn, chuỗi cung ứng nguyên liệu đứt gãy, nhân sự hao hụt khiến không ít doanh nghiệp đóng cửa, dừng hoạt động.

Trong tháng 7 vừa qua, 4.527 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, 3.932 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, 1.442 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể.

Luỹ kế từ đầu năm, cả nước có gần 79.700 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 25,5% so với cùng kỳ năm 2020, bao gồm: 40.300 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 23% so với cùng kỳ năm trước; 28.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 28,6%; 11.400 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 27,4%. Như vậy, trung bình mỗi tháng có gần 11.400 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Số lượng doanh nghiệp ngừng sản xuất và phá sản được dự báo sẽ tiếp tục tăng cao, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ.

Với những doanh nghiệp còn hoạt động được, kể cả doanh nghiệp lớn, thì duy trì dòng tiền ngắn hạn để trả lương công nhân viên, trả nợ ngân hàng cũng rất vất vả khi không có doanh thu hoặc doanh thu giảm mạnh.

Cho tới nay, nhiều tổ chức đã đưa ra những kịch bản thận trọng với kinh tế vĩ mô quý 3 và cả năm 2021.

Standard Chartered đánh giá tăng trưởng GDP Việt Nam năm nay sẽ đạt 6,5%, giảm nhẹ so với mức dự báo 6,7% được đưa ra trước đó. Dù vậy, đây vẫn là con số khá lạc quan nếu so với mức 5,8% ADB mới đưa ra (giảm so với mức 6,7% đưa ra vào tháng 4).

VEPR đưa ra 2 kịch bản thận trọng hơn, với khoảng 5,4 - 6,1% nếu dịch bệnh được kiểm soát vào tháng 8/2021, tiêm vaccine được đẩy nhanh và đạt miễn dịch cộng đồng vào quý 1/2022; và mức 4,5 - 5,1% nếu tới cuối quý 3 mới kiểm soát được dịch bệnh và miễn dịch cộng đồng vào quý 2/2022.

Về kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp, trong báo cáo nhận định về kinh tế vĩ mô và triển vọng thị trường chứng khoán tháng 8/2021, Công ty Chứng khoán Agriseco nhận định ba động lực tăng trưởng kinh tế đang gặp trở ngại, các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ đang chịu ảnh hưởng mạnh nhất do ảnh hưởng của đại dịch. Dự báo xu hướng thu hẹp sản xuất kinh doanh sẽ tiếp tục diễn ra trong các tháng tới.

Mirae Asset cũng nhận định các biện pháp giãn cách xã hội sẽ khiến lợi nhuận các nhóm ngành biến động mạnh 6 tháng cuối năm. Trong trường hợp xấu, dịch bệnh kéo dài đến cuối tháng 10, mức tăng trưởng lợi nhuận trên mỗi cổ phần (EPS) của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn HOSE chỉ kỳ vọng ở mức 28% thay vì 33% ở trường hợp lạc quan.

Chia sẻ tại tọa đàm trực tuyến "Nhận diện cơ hội thị trường chứng khoán nửa cuối năm 2021", ông Lê Anh Tuấn, Giám đốc chiến lược đầu tư Công ty Dragon Capital dự báo tăng trưởng lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết năm 2021 giảm từ 50% xuống 40% (bao gồm cả UPCoM).

Công ty chứng khoán Tân Việt (TVSI) cũng cho rằng làn sóng COVID-19 bùng phát sẽ khiến lợi nhuận nửa cuối năm của các doanh nghiệp niêm yết sẽ tăng trưởng chậm lại và TVSI dự báo tăng trưởng EPS của các doanh nghiệp trên HOSE cho cả năm 2021 là 28%.

Trên thực tế, với những khó khăn hiện hữu, nhiều doanh nghiệp đã phải điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, đơn cử, Vietjet Air đã đặt mục tiêu nỗ lực "không lỗ" trong năm nay thay vì lãi 1.000 tỷ như trước đó đề ra. Hay như với Vinamilk, SSI Research dự báo, việc hoàn thành kế hoạch năm 2021 sẽ là một thử thách cho công ty này trong bối cảnh khó khăn như hiện tại.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ