BaoVietBank lãi 80 tỷ đồng năm 2018

Nhàđầutư
Kết quả kinh doanh không mấy khả quan của BaoVietBank là tình trạng chung của một số tổ chức tín dụng cỡ nhỏ, với vốn điều lệ quanh mức pháp định 3.000 tỷ đồng. Nguồn lực nội tại hạn hẹp khiến họ khó lòng cạnh tranh với các nhà băng top đầu.
NGHI ĐIỀN
26, Tháng 01, 2019 | 07:51

Nhàđầutư
Kết quả kinh doanh không mấy khả quan của BaoVietBank là tình trạng chung của một số tổ chức tín dụng cỡ nhỏ, với vốn điều lệ quanh mức pháp định 3.000 tỷ đồng. Nguồn lực nội tại hạn hẹp khiến họ khó lòng cạnh tranh với các nhà băng top đầu.

baovietbank-nhadautu.vn

BaoVietBank đang rất "khát" vốn, tuy nhiên việc tăng vốn, đi kèm với dứt "bầu sữa mẹ" Tập đoàn Bảo Việt không phải là nhiệm vụ dễ dàng.

Theo báo cáo tài chính (chưa kiểm toán) vừa công bố, Ngân hàng TMCP Bảo Việt (BaoVietBank) đạt thu nhập lãi 2.957 tỷ đồng trong năm 2018, tăng 8% so với năm 2017. Tuy nhiên chi phí lãi tăng mạnh (26%) khiến thu nhập lãi thuần giảm 28% về 632 tỷ đồng.

Trong bối cảnh lĩnh vực kinh doanh chính suy giảm, các mảng khác lại là điểm sáng của BaoVietBank trong năm, như chứng khoán kinh doanh (lãi 309 tỷ đồng), dịch vụ (60 tỷ đồng), kinh doanh ngoại hối (13 tỷ đồng).

Dù vậy, lãi trước thuế năm 2018 chỉ đạt 103,9 tỷ đồng, giảm 29% so với cùng kỳ và chỉ hoàn thành 69% kế hoạch cả năm (151 tỷ đồng). Trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp, lãi sau thuế của thành viên Tập đoàn Bảo Việt là 80,1 tỷ đồng, lãi cơ bản trên cổ phiếu (EPS) là 237 đồng.

Tổng tài sản tới cuối năm 2018 là 55.879 tỷ đồng, tăng 14% so với đầu năm, trong đó riêng tín dụng tăng gần 19% lên 25.439 tỷ đồng.

"Quota" tăng trưởng tín dụng cả năm 2018 ban đầu được NHNN cấp cho BaoVietBank là 12%. Sau đó Ngân hàng cho biết sẽ xin điều chỉnh chỉ tiêu này lên 20%. Với kết quả thể hiện trên bảng cân đối kế toán, có thể hiểu rằng đề xuất của BaoVietBank đã được cơ quan quản lý chấp thuận.

Song song với mở rộng quy mô tín dụng, nợ xấu (các nhóm 3,4,5) của BaoVietBank cũng có xu hướng tăng lên cả về tuyệt đối lẫn tương đối, với số dư 1.025 tỷ đồng, tương đương tỷ lệ 4%, tăng so với 3,8% đầu năm. Ngoài ra, nợ nhóm 2 cũng tăng 21% lên 2.059 tỷ đồng.

Kết quả kinh doanh không mấy khả quan của BaoVietBank là tình trạng chung của một số tổ chức tín dụng cỡ nhỏ, với vốn điều lệ quanh mức pháp định 3.000 tỷ đồng. Nguồn lực nội tại hạn hẹp khiến họ khó lòng cạnh tranh với các nhà băng top đầu.

Năm 2018, Ngân hàng Quốc dân (NCB) chỉ lãi vỏn vẹn 39,2 tỷ đồng, Ngân hàng Công thương (SaigonBank) lỗ 51,9 tỷ đồng quý IV/2018. VietCapital Bank lỗ trước thuế 33,5 tỷ đồng trong quý II/2018.

Nhận thức được vấn đề này, BaoVietBank cho biết sẽ quyết liệt nâng cao năng lực tài chính theo lộ trình tăng vốn điều lệ, đồng thời giảm tỷ lệ sở hữu của Tập đoàn Bảo Việt.

Cụ thể, năm 2019, BaoVietBank dự kiến tăng vốn điều lệ thông qua chuyển đổi một phần hoặc toàn bộ 2.050 tỷ đồng trái phiếu kèm chứng quyền thành cổ phiếu thường, nâng vốn từ 3.150 tỷ đồng lên 5.200 tỷ đồng. Đến năm 2020, Ngân hàng tiếp tục tăng vốn điều lệ, vốn tự có...để phần vốn của Tập đoàn Bảo Việt xuống 15% theo đúng quy định của Luật các Tổ chức tín dụng.

Bên cạnh đó, dự kiến quý IV/2018, không chậm hơn quý I/2019, BaoVietBank sẽ thực hiện việc đăng ký niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán theo đúng quy định tại Thông tư 180/2015/TT-BTC.

Giảm tỷ lệ sở hữu của Tập đoàn Bảo Việt sẽ mở ra một thời kỳ mới với nhà băng "trẻ" nhất Việt Nam (thành lập năm 2008), dù vậy cũng đi kèm với những thách thức rất lớn, đặc biệt là việc lựa chọn đối tác chiến lược đủ "tầm" thay thế Tập đoàn Bảo Việt.

Hiện nay, dù trên danh nghĩa không còn là công ty con của Tập đoàn Bảo Việt (tỷ lệ 49,5%), song BaoVietBank vẫn giới thiệu là một thành viên và trên thực tế phụ thuộc lớn vào Bảo Việt Group. Tới cuối năm 2018, số dư các khoản tiền gửi, trái phiếu của các thành viên Tập đoàn Bảo Việt ở BaoVietBank lên tới hơn 10.400 tỷ đồng, tương đương khoảng 40% tổng số dư huy động khách hàng (27.043 tỷ đồng).

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ