2,3 triệu tỷ đồng dư nợ tín dụng bất động sản

Nhàđầutư
Tới cuối tháng 4/2022, tổng dư nợ đối với lĩnh vực bất động sản của các tổ chức tín dụng đạt hơn 2,288 triệu tỷ đồng, tăng 10,19% so với cuối năm 2021 và chiếm tỷ trọng 20,44% tổng dư nợ nền kinh tế. Trong đó, tỷ lệ nợ xấu là 1,62%, khoảng 37.000 tỷ đồng.
HỮU BẬT
06, Tháng 06, 2022 | 17:04

Nhàđầutư
Tới cuối tháng 4/2022, tổng dư nợ đối với lĩnh vực bất động sản của các tổ chức tín dụng đạt hơn 2,288 triệu tỷ đồng, tăng 10,19% so với cuối năm 2021 và chiếm tỷ trọng 20,44% tổng dư nợ nền kinh tế. Trong đó, tỷ lệ nợ xấu là 1,62%, khoảng 37.000 tỷ đồng.

E41D8B46BF224311C710150ED434D9-5151-1363-1649571662

Tổng dư nợ đối với lĩnh vực bất động sản của các TCTD đạt hơn 2,288 triệu tỷ đồng tới cuối tháng 4/2022, tăng 10,19% so với cuối năm 2021. Ảnh: Internet.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng vừa có báo cáo "Một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV".

Cụ thể, số liệu NHNN cho thấy tổng dư nợ đối với lĩnh vực bất động sản của các tổ chức tín dụng đạt hơn 2,288 triệu tỷ đồng, tăng 10,19% so với cuối năm 2021 và chiếm tỷ trọng 20,44% tổng dư nợ nền kinh tế. Trong đó, tỷ lệ nợ xấu là 1,62%, khoảng 37.000 tỷ đồng.  

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cho biết, hiện khoảng 94% dư nợ tín dụng bất động sản là cho vay trung, dài hạn (10-25 năm), trong khi nguồn huy động của ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn.

NHNN đánh giá đầu tư kinh doanh bất động sản là một trong các lĩnh vực rủi ro đối với hoạt động ngân hàng, cần có các giải kiểm soát giải pháp. Do đó, cần hoàn thiện hành lang pháp lý thông qua các văn bản quy phạm pháp luật về các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng.

Bên cạnh đó, cần giám sát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng dư nợ và chất lượng tín dụng đối với các lĩnh vực chứng khoán và bất động sản để kịp thời phát hiện dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro và có biện pháp xử lý phù hợp, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống các tổ chức tín dụng.

Thống đốc NHNN cho biết: ”Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, chú trọng, tập trung kiểm tra các hồ sơ cấp tín dụng lĩnh vực bất động sản của các ngân hàng. Từ đó phát hiện các vấn đề, tồn tại, vi phạm trong hoạt động cấp tín dụng để kịp thời xử lý, đưa ra kiến nghị cụ thể hạn chế rủi ro của các tổ chức tín dụng trong hoạt động cấp tín dụng nói chung và bất động sản nói riêng”.

Nói về những khó khăn, vướng mắc, Thống đốc NHNN đánh giá tình trạng thổi giá gây sốt ảo bất động sản, đấu giá đất cao bất thường… ảnh hưởng đến việc cấp tín dụng, định giá tài sản đảm bảo của các tổ chức tín dụng.

Mặc dù tình hình cấp tín dụng, cũng như chất lượng tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản vẫn đang được NHNN kiểm soát ổn định nhưng để hạn chế tác động của thị trường bất động sản đối với kinh tế vĩ mô, tiền tệ, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng cần có các giải pháp toàn diện, đồng bộ với sự phối hợp của các bộ, ban, ngành có liên quan.

Trong thời gian tới, theo Thống đốc, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, trong đó có đầu tư, kinh doanh bất động sản. Đồng thời, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tiếp cận nguồn vốn tín dụng để mua nhà, đầu tư nhà ở tự sử dụng, đặc biệt là nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, nhà ở thương mại giá rẻ.

Cơ quan này sẽ tăng cường thanh tra, giám sát chặt việc cấp tín dụng bất động sản để kịp có giải pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.

Cũng theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, đến 31/5, tín dụng tăng 8,04% so với cuối 2021, và tăng 16,94% so với cùng kỳ năm ngoái.

Tăng trưởng tín dụng năm 2022 chịu nhiều sức ép lớn do cộng hưởng nhiều yếu tố, như đầu tư công giải ngân vẫn còn chậm khiến nguồn vốn phục hồi kinh tế phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng.

Bên cạnh đó, việc điều hành tín dụng sẽ gặp nhiều thách thức trong bối cảnh triển khai gói hỗ trợ lãi suất 40.000 tỷ đồng năm 2022-2023, áp lực lạm phát ngày càng tăng, tỷ lệ tín dụng trên GDP đã ở mức cao. 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ