VN-Index giảm điểm kỷ lục gần 60 điểm: Đã đến hồi ‘đánh trống thu quân’?

Nhàđầutư
Đúng như nhiều nhận định các chuyên gia trao đổi trước đó với Nhadautu.vn, đây là thời điểm các nhà đầu tư cần cẩn trọng và quan sát thị trường hơn là thực hiện các hoạt động giao dịch.
HUY NGỌC
05, Tháng 02, 2018 | 16:01

Nhàđầutư
Đúng như nhiều nhận định các chuyên gia trao đổi trước đó với Nhadautu.vn, đây là thời điểm các nhà đầu tư cần cẩn trọng và quan sát thị trường hơn là thực hiện các hoạt động giao dịch.

nhadautu - VN-Index downtrend

 VN-Index giảm điểm kỷ lục gần 60 điểm: Đã đến hồi ‘đánh trống thu quân’?

Phiên 5/2 ghi nhận VN-Index đã giảm ‘kỷ lục’ hơn 56 điểm xuống mức 1.048,71 điểm. Đây được coi là mức biến động lớn nhất kể từ sự kiện biển Đông năm 2014. Cùng với VN-Index, các sàn còn lại cũng giảm điểm khá mạnh. Cụ thể, HNX-Index giảm 5,03 điểm còn 118,94 điểm; UpCom ghi nhận giảm 1,91 điểm còn 56,93 điểm.

Số mã giảm điểm chiếm áp đảo. VN-Index ghi nhận chỉ có 50 mã tăng điểm và có đến 269 mã giảm điểm; HNX-Index ghi nhân 48 mã tăng điểm, nhưng có tận 184 mã giảm điểm; sàn UpCom ghi nhận 54 mã tăng điểm và 118 mã giảm điểm.

Thanh khoản VN-Index đạt hơn 282 triệu đơn vị, tương đương tổng giá trị giao dịch 8.302,8 tỷ đồng.

Các trụ vốn hóa lớn ngày hôm nay đã đồng loạt giảm rất mạnh. Nhóm VN30 ghi nhận có đến 27 mã giảm điểm, trong đó đã có 13 mã giảm sàn như BID, BVH, VIC, VCB, CTG, SSI, SBT, HSG, GAS, REE, PLX, MSN, STB. HPG và BMP cũng gần mức giá sàn khi cùng giảm 6,7%.

Đà giảm của các cổ phiếu này quá lớn dẫn đến sự tăng điểm của các mã như CTD (+1,1% - 188.100 đồng), ROS (+0,6% - 162.900 đồng), NVL (+0,1% - 81.600 đồng) trở nên vô nghĩa.  

Đà giảm điểm của các mã này thậm chí còn lan sang nhiều nhóm ngành khác như Dầu khí, Ngân hàng, Bất động sản,…

Vậy đã đến lúc nhà đầu tư ‘gõ trống, thu quân’?

Trao đổi với PV  Nhadautu.vn, ông Vũ Tuấn Duy, chuyên viên cấp cao MBS cho biết, việc giảm điểm hôm nay của các cổ phiếu trụ là chuyện bình thường khi đã tăng trưởng quá nóng, đã đến lúc nhà đầu tư lớn chốt lời ở các mã này.

Tính trong 1 tháng vừa qua, VN-Index đã tăng 11% lên mức 1.105,04 điểm (tính đến phiên 2/2).

Cũng cần phải kể đến các tác nhân ngoại cảnh, mà điển hình là việc TTCK thế giới bị 'bán tháo' mạnh mẽ. Trong phiên giao dịch cuối tuần trước, lo ngại về áp lực lạm phát sau dữ liệu lao động và tiền lương tăng trong tháng 1 của Mỹ, giới đầu tư trên thị trường chứng khoán Âu, Mỹ hoảng loạn bán tháo. Thị trường chứng khoán phố Wall đã ghi hận phiên giảm mạnh nhất trong 20 tháng và đây là tuần giảm điểm mạnh nhất trong 2 năm.

Tuy vậy, nên nhớ là trước đó việc VN-Index đi vào nhịp điều chỉnh đã được các chuyên gia ‘tiên liệu’ từ trước. Trong nhiều lần trao đổi với PV.Nhadautu.vn, ông Lê Anh Minh, Giám đốc phân tích cơ bản VPBS đã cảnh báo nhà đầu tư cần thận trọng, hoặc tốt nhất nên rút vốn, tận hưởng thành quả đã đạt được. 

Trong khi đó, ông Nguyễn Thế Minh, Phó giám đốc kiêm Trưởng nhóm Phân tích thị trường vốn, Khối khách hàng cá nhân SSI cho rằng, việc điều chỉnh trong thời gian gần đây có thể đến từ việc TTCK Việt Nam đã tăng quá mạnh trong tháng 1/2018. Ngoài ra, vào thời điểm gần Tết âm, giới đầu tư thường có động thái chốt lời dần hoặc hạn chế mua mới và bán bớt margin.

Với ông Đỗ Bảo Ngọc - Chuyên gia nghiên cứu cao cấp, Công ty chứng khoán Quân đội khi nói riêng về dòng Dầu khí, ông từng cho rằng các cổ phiếu này trong trung hạn vẫn phát triển, nhưng ‘Ở thời điểm hiện tại, nhà đầu tư không nên dò đáy, bởi ‘đáy’ có thể còn thấp hơn nữa. Do đó, nên chọn thời điểm giá cân bằng trở lại, sau đó có thể giải ngân mua vào’.

Vậy với các nhà đầu tư đang ‘kẹp hàng’ thì phải có xử lý như thế nào? Ông Duy cho rằng, chiến lược tốt nhất vẫn là chốt lời 'giữ tiền ăn Tết'. Tuy nhiên, trong trường hợp 'kẹp hàng', nhà đầu tư nên giữ các cổ phiếu đã mua được ở ‘chân sóng’ (giá thấp), ngừng việc mua các cổ phiếu trụ và dần cơ cấu tiền sang chọn lọc  kỹ các mã penny.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24610.00 24635.00 24955.00
EUR 26298.00 26404.00 27570.00
GBP 30644.00 30829.00 31779.00
HKD 3107.00 3119.00 3221.00
CHF 26852.00 26960.00 27797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15877.00 15941.00 16428.00
SGD 18049.00 18121.00 18658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17916.00 17988.00 18519.00
NZD   14606.00 15095.00
KRW   17.59 19.18
DKK   3531.00 3662.00
SEK   2251.00 2341.00
NOK   2251.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ