Việt Nam sắp có ngân hàng lớn đầu tiên đạt chuẩn Basel II

Dự kiến sẽ có ngân hàng lớn đầu tiên của Việt Nam áp chuẩn Basel II toàn diện vào tháng 7 tới.
MINH ĐỨC
26, Tháng 06, 2018 | 10:23

Dự kiến sẽ có ngân hàng lớn đầu tiên của Việt Nam áp chuẩn Basel II toàn diện vào tháng 7 tới.

Vietcombank 5

 

Theo tiến độ dự kiến, vào tháng 7/2018, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) sẽ bắt đầu áp dụng các tiêu chuẩn Basel II một cách toàn diện.

Hiệp ước Basel II là chuẩn mực quốc tế mà hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam đang hướng đến thí điểm từng bước áp dụng, nhằm củng cố an toàn và hiệu quả hoạt động.

Ba năm trước, Ngân hàng Nhà nước từng lựa chọn 10 ngân hàng thương mại đầu tiên để lên kế hoạch thí điểm thực hiện. Tuy nhiên, đến nay chưa có thành viên nào trong nhóm này công bố triển khai xong.

Trong năm 2017, lần đầu tiên hệ thống có thành viên tuyên bố đã áp dụng đầy đủ và toàn diện Basel II là Ngân hàng Phương Đông (OCB). Với những thành viên lớn, đặc biệt ở khối ngân hàng thương mại mà Nhà nước đang nắm sở hữu chi phối, đang chiếm phần lớn thị phần, chưa có trường hợp nào thực hiện được. 

Theo đề án tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam giai đoạn 2, mục tiêu xác định đến năm 2020 sẽ có những thành viên đạt được chuẩn mực này.

Mới đây lãnh đạo Vietcombank cho biết đang ráo riết thực hiện những bước cuối cùng để tiến tới thực hiện áp dụng các chuẩn mực Basel II một cách toàn diện và đầy đủ trong tháng 7/2018.

Theo đó, dự kiến đây sẽ là ngân hàng lớn đầu tiên của Việt Nam thực hiện thành công, sớm trước mục tiêu của đề án trên hơn hai năm.

Cụ thể, trong những năm gần đây Vietcombank đã tập trung chuẩn bị, triển khai các đề án cụ thể để tiến tới áp dụng Basel II, trong đó có tới 82 sáng kiến để hoàn thiện đến bước cuối cùng.

Đầu năm nay, Vietcombank cũng đã hoàn thành xây dựng mô hình lượng hóa xác suất vỡ nợ đối với rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn Basel II và là ngân hàng tiên phong sẵn sàng cho việc áp dụng hiệp ước quốc tế này theo phương pháp nâng cao (IRB).

Trước nữa, từ cuối năm 2016, đây cũng là ngân hàng thương mại đầu tiên hoàn tất việc mua lại toàn bộ nợ xấu đã bán cho Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), để đưa bảng cân đối tài chính thực sự về "một sổ" - một bước quan trọng để thực hiện Basel II.

Tuy nhiên, như đặc thù của khối ngân hàng thương mại mà Nhà nước có tỷ lệ sở hữu chi phối, những năm qua Vietcombank đã gặp khó khăn nhất định trong các bước tăng vốn điều lệ để nâng cao năng lực tài chính, đặc biệt là để đáp ứng hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR).

Trước đây, ngân hàng này từng mất tới khoảng hai năm để cân đối đảm bảo tỷ lệ CAR theo tiêu chuẩn của Việt Nam, mà nguyên do chủ yếu cũng xuất phát từ mô hình sau cổ phần hóa gắn với yêu cầu tăng vốn, khi Nhà nước vẫn nắm tỷ lệ sở hữu chi phối và khó khăn trong bố trí ngân sách để tăng vốn…

Lần này, để đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ CAR theo tiêu chuẩn Basel II, Vietcombank đang có kế hoạch tăng vốn điều lệ qua phương án phát hành cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. Kế hoạch này hiện vẫn đang được xúc tiến, trong đó có bước thực hiện thuê tư vấn định giá và cần thêm thời gian.

Theo lãnh đạo Vietcombank, trong trường hợp kế hoạch chào bán cổ phần để tăng vốn nói trên chậm do những yếu tố khách quan, ngân hàng có thể sẽ sử dụng phương án phát hành trái phiếu dài hạn để tăng vốn cấp 2, nâng cao hệ số CAR - hướng giải pháp mà ngân hàng đã thực hiện thành công trong hai năm qua.

Như vậy, trong cả hai hướng dự kiến, nếu đẩy nhanh và phát hành tăng vốn thành công, Vietcombank sẽ chủ động hơn trong định hướng sớm áp dụng thành công Basel II, hoặc ở hướng phát hành trái phiếu nói trên để đảm bảo lộ trình dự kiến của mình. Cả hai hướng này đều nhằm đích hoàn thành sớm trước hơn 2 năm so với mục tiêu đề ra tại đề án tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam đến 2020.

(Theo VnEconomy)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ