TP.HCM muốn chuyển 3.682 tỷ đồng vốn ODA chưa giải ngân của dự án metro số 1 sang năm 2021

Nhàđầutư
UBND TP.HCM đã kiến nghị Bộ KH&ĐT xem xét, điều chuyển vốn ODA chưa giải ngân của dự án metro số 1 là 3.682 tỷ đồng từ năm 2020 sang năm 2021. Đồng thời, kiến nghị Bộ Tài chính xem xét, sớm có ý kiến về hồ sơ đề nghị gia hạn thời gian giải ngân đến ngày 30/12/2026 đối với metro số 2.
LÝ TUẤN
09, Tháng 11, 2020 | 19:50

Nhàđầutư
UBND TP.HCM đã kiến nghị Bộ KH&ĐT xem xét, điều chuyển vốn ODA chưa giải ngân của dự án metro số 1 là 3.682 tỷ đồng từ năm 2020 sang năm 2021. Đồng thời, kiến nghị Bộ Tài chính xem xét, sớm có ý kiến về hồ sơ đề nghị gia hạn thời gian giải ngân đến ngày 30/12/2026 đối với metro số 2.

Văn phòng UBND TP.HCM cho biết, để đẩy nhanh tiến độ dự án xây dựng tuyến đường sắt đô thị Bến Thành - Suối Tiên (metro số 1), UBND TPHCM vừa kiến nghị Bộ KH&ĐT xem xét, điều chuyển vốn ODA cấp phát từ ngân sách Trung ương chưa giải ngân cho dự án năm 2020 sang năm 2021 là 3.682 tỷ đồng.

Đối với dự án xây dựng metro số 2 (tuyến Bến Thành - Tham Lương), UBND TP.HCM cũng kiến nghị Bộ Tài chính xem xét, sớm có ý kiến về hồ sơ đề nghị gia hạn thời gian giải ngân đến ngày 30/12/2026 và điều chỉnh lịch trả nợ 2 khoản vay của Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) đến ngày 30/9/2027 của dự án xây dựng tuyến tàu điện ngầm số 2 tuyến Bến Thành - Tham Lương.

Ban quản lý đường sắt đô thị (MAUR) cũng vừa có văn bản gửi UBND TP.HCM đề xuất về việc triển khai hệ thống thu phí tự động (AFC) metro số 1 và số 2  và các tuyến metro khác của thành phố.

MAUR cho biết, AFC của metro số 1 là một trong 11 hệ thống con thuộc gói thầu CP3 - thiết bị cơ điện, đầu máy toa xe, đường ray... (nhà thầu chính là Hitachi). Hệ thống gồm nhiều hạng mục như: Cổng soát vé, máy điều chỉnh giá vé, thiết bị đầu cuối cho nhân viên nhà ga; máy chủ; thiết bị mạng; máy phát hành và tái chế vé; thiết bị quản lý tiền mặt, vé thông minh không tiếp xúc...

IMG_6564

Dự án metro số 1 đến nay đã hoàn thành được 78% khối lượng công việc.

Tính đến tháng 10/2020, AFC đã kết thúc phần thiết kế kỹ thuật, hiện chuyển qua giai đoạn sản xuất và chế tạo, đã đạt được 53% khối lượng, lắp đặt tại công trường đạt 7% khối lượng. Dự kiến cuối năm 2021 hoàn thành lắp đặt và chạy thử để chuẩn bị công tác vận hành, khai thác toàn tuyến metro số 1.

Tuy nhiên, hệ thống này được lên ý tưởng thiết kế từ 10 năm trước, cơ chế thời điểm đó vẫn chưa đầy đủ nên chưa cập nhật tính năng phân biệt những khách được hưởng chính sách miễn giảm giá vé như học sinh, sinh viên, người khuyết tật...

Hình thức nạp tiền hay mua vé của AFC metro số 1 còn hạn chế, chưa hỗ trợ các hình thức nạp tiền mua vé phổ biến khác như dùng thẻ ngân hàng ATM, thẻ tín dụng, các loại ví điện tử...; chưa thể dùng thẻ ngân hàng (công nghệ Chip EMV) thanh toán trực tiếp cho chi phí đi tàu; chưa thể dùng điện thoại thông minh (hỗ trợ công nghệ NFC) để thay thế vé đi tàu; chưa thể phát triển vé đi tàu thành ví điện tử đế có thế thanh toán các dịch vụ thương mại tại khu vực nhà ga…

Do đó, đơn vị Tư vấn chung NJPT chưa đưa vào yêu cầu thiết kế của hệ thống và dự định sẽ bổ sung chức năng giảm giá vé này cho lần nâng cấp hệ thống AFC tiếp theo.

Trong khi đó, hệ thống AFC của tuyến metro số 2 là một trong 12 hệ thống con thuộc gói thầu CP7 - Cơ điện không hệ thống với các hạng mục tương tự như metro số 1. Theo MAUR, hiện tại, hạng mục hệ thống AFC tuyến metro số 2 thuộc gói thầu CP7 đang trong giai đoạn chuẩn bị hồ sơ mời thầu.

“Đối với các tuyến còn lại, hiện nay vẫn đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư nên việc thay đổi các tiêu chuẩn kỹ thuật sẽ dễ thực hiện hơn so với tuyến metro số 1 và số 2, các tiêu chuẩn kỹ thuật dự kiến áp dụng tùy vào nhà tài trợ”, MAUR thông tin.

Trước tình hình trên, MAUR đề xuất UBND TP.HCM về kế hoạch nâng cấp hệ thống AFC, đối với tuyến metro số 1, trong giai đoạn 1 trước khi vận hành, khai thác tuyến metro số 1 thì tiếp tục thực hiện theo kế hoạch đề ra của Nhà thầu Hitachi để đảm bảo việc xây dựng hệ thống AFC tuyến metro số 1 đúng tiến độ.

Đồng thời, MAUR sẽ phối hợp với đơn vị Tư vấn chung NJPT để yêu cầu Nhà thầu Hitachi bổ sung một số tính năng tối thiểu để đảm bảo phù hợp với quy định hiện hành. Đó là chính sách giảm giá vé và vé tháng cho các đối tượng hành khách đặc biệt như học sinh, sinh viên, người già, người khuyết tật… áp dụng cho vé có định danh. Cạnh đó, bổ sung chức năng nạp tiền hoặc mua vé bằng thẻ ngân hàng ATM, thẻ tín dụng.

Giai đoạn 2 sau khi vận hành, khai thác tuyến metro số 1 sẽ bổ sung chức năng dùng thẻ ngân hàng làm vé đi tàu; nâng cấp vé metro có chức năng ví điện tử; sử dụng điện thoại thông minh thay vé đi tàu.

Các công việc dự kiến cần phải thực hiện theo ý kiến của Tư vấn chung NJPT như chỉnh sửa phần mềm hệ thống; thiết kế lại phần cứng hệ thống máy chủ trung tâm, máy chủ nhà ga, cổng soát vé, máy bán vé, máy điều chỉnh giá vé, máy bán vé tại quầy vé; thời gian thực hiện nâng cấp khoảng 5 năm…

Về nguồn vốn thực hiện đề xuất sử dụng nguồn vốn ngân sách thành phố (vì việc nâng cấp này nằm ngoài hạng mục vay vốn của JICA).

Để hệ thống AFC của tuyến metro số 2 và các tuyến khác có thể đồng bộ, liên thông và kết nối với hệ thống AFC chung của giao thông công cộng Thành phố, MAUR kiến nghị UBND TP.HCM chỉ đạo Sở GTVT tham mưu UBND thành phố sớm ban hành Khung tiêu chuẩn kỹ thuật vé chung đế MAUR chỉnh sửa và bổ sung Chỉ dẫn kỹ thuật thuộc Hồ sơ mời thầu của gói thầu CP7 - Cơ điện không hệ thống của tuyến metro số 2.  Do việc phát hành hồ sơ mời thầu đã tạm hoãn nhiều lần vì thực hiện theo yêu cầu của Sở GTVT.

“Trường hợp đến cuối quý I/2021, Sở GTVT vẫn chưa ban hành Khung tiêu chuẩn kỹ thuật vé chung, Hồ sơ mời thầu sẽ được phát hành theo Chỉ dẫn kỹ thuật hiện có, đề đảm bảo đúng tiến độ cam kết với nhà tài trợ”, MAUR kiến nghị.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24620.00 24635.00 24955.00
EUR 26213.00 26318.00 27483.00
GBP 30653.00 30838.00 31788.00
HKD 3106.00 3118.00 3219.00
CHF 26966.00 27074.00 27917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15849.00 15913.00 16399.00
SGD 18033.00 18105.00 18641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17979.00 18051.00 18585.00
NZD   14568.00 15057.00
KRW   17.62 19.22
DKK   3520.00 3650.00
SEK   2273.00 2361.00
NOK   2239.00 2327.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ