Top 10 cổ phiếu tăng/giảm mạnh nhất tuần: Nhóm trụ cột ngân hàng, chứng khoán giảm mạnh

Thị trường có tuần giảm điểm thứ 3 liên tiếp để tạo thành mẫu hình ba con quạ đen (three black crows) mang tính bearish khá cao. Thanh khoản đi xuống so với tuần trước đó và ở mức thấp với chỉ khoảng 4.500 tỷ đồng giao dịch mỗi phiên trên cả hai sàn.
LẠC NHẠN
01, Tháng 07, 2018 | 07:40

Thị trường có tuần giảm điểm thứ 3 liên tiếp để tạo thành mẫu hình ba con quạ đen (three black crows) mang tính bearish khá cao. Thanh khoản đi xuống so với tuần trước đó và ở mức thấp với chỉ khoảng 4.500 tỷ đồng giao dịch mỗi phiên trên cả hai sàn.

188_pwkf

 

Chốt tuần, VN-Index giảm 22,39 điểm (-2,3%), xuống 960,78 điểm. Giá trị giao dịch giảm 9,2% xuống 19.927 tỷ đồng, khối lượng giao dịch giảm 6,1% xuống 781 triệu cổ phiếu

HNX-Index giảm 5,81 điểm (-5,2%) xuống 106,17 điểm. Giá trị giao dịch giảm 15,1% xuống 2.740 tỷ đồng, với khối lượng giao dịch giảm 18,2% xuống 171 triệu cổ phiếu.

Thị trường tiếp suy yếu thì các nhóm ngành cổ phiếu chính đều đi xuống.

Nhóm trụ cột ngân hàng giảm 2,2% với  VCB (-1,2%), BID (-5,5%), CTG (-6,4%), VPB (-12,8%), TCB (-3,5%), MBB (-6,1%), ACB (-9,6%), SHB (-5,7%)...

Nhóm cổ phiếu chứng khoán cũng có tuần giao dịch kém tích cực với nhiều mã giảm như SSI (-9,8%), VND (-8,2%), HCM (-7,3%), MBS (-1,9%), CTS (-2,7%), VCI (-3,8%), SHS (-6,9%)...

Các mã trụ cột khác cũng bị chốt lời và đồng loạt giảm như BHN (-13,6%), VJC (-2,7%), SAB (-0,2%), PNJ (-17,1%), VNM (-4,5%), VHM (-1,6%), HPG (-6,2%), VRE (-3%), MSN (-2,5%) đều có ảnh hưởng tiêu cực đến xu hướng chung thị trường.

Trên sàn HOSE, nhóm cổ phiếu tăng điểm đáng chú ý hầu hết là các mã nhỏ, trong đó TLD có tuần thứ 3 liên tiếp lọt vào bảng 10 mã tăng giá tốt nhất tuần, và tính chung trong 3 tuần trở lại đây, thị giá cổ phiếu TLD đã tăng từ 10.750 đồng lên 15.700 đồng, tương đương +46%.Tương tự là các mã khác gồm SJF, SVT khi có tuần thứ 2 liên tiếp nằm trong số những mã tăng tốt nhất sàn, tuần trước các mã này tăng lần lượt 20,33% và 22,06%.

Trong khi đó, DAT từ mã giảm sâu gần 25% trong tuần trước thì đã trở lại tăng mạnh nhất trên HOSE khi kết thúc tuần này.

Top 10 cổ phiếu tăng/giảm mạnh nhất trên sàn HOSE tuần từ 22/6 - 29/6:

HOSE123

 

Ngược lại, nhóm giảm điểm có LDG khi mà tuần thứ 2 liên tiếp suy giảm mạnh và bị nhà đầu tư bán xả hàng, nguyên nhân vẫn có lẽ là do sức ép chốt lời, do lo ngại về việc pha loãng khi LDG đã phát hành 28,7 triệu cổ phiếu để trả cổ tức trong tháng 6 này. Tuần trước, mã này mất 14,5% giá trị. PNJ vẫn đang nối dài chuỗi ngày lao dốc sau thông tin bà Nguyễn Thị Cúc - Thành viên HĐQT kiêm Phó Tổng giám đốc của PNJ bị khởi tố liên quan đến các sai phạm tại DongABank.

Liên quan đến ngân hàng thì đặc biệt trong danh sách có VPB, khi cả 5 phiên giao dịch đều giảm điểm, trong đó 3 phiên cuối cùng giảm sâu (-4,4%; -3,6%; -2,7%).

Trên sàn HNX, nhóm cổ phiếu tăng/giảm phần lớn thanh khoản thấp, không đáng kể, do đó giá cổ phiếu tăng/giảm mạnh chỉ bởi vài trăm đơn vị khớp lệnh. Đáng lưu ý có sự xuất hiện của AAV của Công ty Cổ phần Việt Tiên Sơn Địa ốc, khi 12,5 triệu cổ phiếu chào sàn vào ngày đầu tuần 25/6, với giá tham chiếu là 12.200 đồng/cổ phiếu, đã tăng tốt trong tuần này.

Thanh khoản khớp lệnh có phiên hơn 800.000 đơn vị, phiên thấp nhất hơn 100.000 đơn vị.

Top 10 cổ phiếu tăng/giảm mạnh nhất trên sàn HNX tuần từ 22/6 - 29/6:

HX123

 

Trên sàn UpCoM, tương tự trên HNX, khi các mã tăng/giảm trên UpCoM cũng chiếm lần lớn là nhóm cổ phiếu có thanh khoản yếu, diễn biến không đáng chú ý.Đáng kể nhất đó là BBT của Công ty Cổ phần Bông Bạch Tuyết, khi chào sàn từ ngày 12/6, và kết thúc tuần này có tuần thứ 2 liên tiếp lọt vào top những mã tăng tốt nhất.

Tổng cộng, cổ phiếu này đã có 13 phiên tăng trần/14 phiên giao dịch. Tuần trước, mã này tăng cao nhất thị trường khi + 97,8%.

Top 10 cổ phiếu tăng/giảm mạnh nhất trên sàn UpCoM tuần từ 22/6 - 29/6:

UpCom1234

 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ