Thị trường chứng khoán Việt: 5,5 triệu tỷ đồng vốn hoá và gần 2,5 triệu nhà đầu tư

Nhàđầutư
Tính đến 30/6/2020, tổng vốn hóa TTCK Việt nam đạt mức 5,5 triệu tỷ; tỷ lệ vốn hóa thị trường/GDP qua 20 năm đã tăng từ mức 0,3% lên mức 104% GDP; đã có 2,46 triệu tài khoản nhà đầu tư trên thị trường, gấp 820 lần năm 2000.
ĐÌNH VŨ
20, Tháng 07, 2020 | 13:06

Nhàđầutư
Tính đến 30/6/2020, tổng vốn hóa TTCK Việt nam đạt mức 5,5 triệu tỷ; tỷ lệ vốn hóa thị trường/GDP qua 20 năm đã tăng từ mức 0,3% lên mức 104% GDP; đã có 2,46 triệu tài khoản nhà đầu tư trên thị trường, gấp 820 lần năm 2000.

Theo TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, ước tính qua 20 năm, vốn hóa thị trường chứng khoán đã có mức tăng trưởng vượt bậc, ở mức trung bình hơn 50%/năm.

Tính đến 30/6/2020, tổng vốn hóa TTCK Việt nam đạt mức 5,5 triệu tỷ, tỷ lệ vốn hóa thị trường/GDP đã tăng từ mức 0,3% năm 2000 lên mức 104% GDP tháng 6/2020.

Trong đó, vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt trên 4 triệu tỷ đồng, tương ứng khoản 64,5% GDP năm 2019 (theo UBCKNN). Vốn hóa thị trường trái phiếu đạt khoảng 2,3 triệu tỷ đồng, tương đương mức 39% GDP năm 2019 (trái phiếu Chính Phủ đạt 29,18%, trái phiếu doanh nghiệp đạt 10,28%).

ts-can-van-luc

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV

"TTCK phát triển mạnh mẽ đã giúp cơ cấu lại hệ thống tài chính Việt Nam theo hướng cân đối, bền vững hơn. Ước tính tỷ trọng vốn hóa khu vực chứng khoán trong tổng tài sản hệ thống tài chính hiện nay ở mức khoảng 30,6%, không cách quá xa so với mức 68,7% của khu vực các tổ chức tín dụng và cao hơn nhiều so với tỷ trọng 21% vào năm 2010", ông Lực nhấn mạnh.

Qua thống kê, ông Lực cho rằng, qua 20 năm hoạt động, đội ngũ nhà đầu tư trên TTCK cũng đã tăng trưởng nhanh về số lượng và đặc biệt là chất lượng.

Theo số liệu từ Sở GDCK TP. HCM, năm 2000, TTCK có khoảng 3 nghìn tài khoản nhà đầu tư tham gia, trong đó chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân (chiếm hơn 99%), tập trung vào hoạt động đầu tư tìm kiếm lợi nhuận ngắn hạn, hoạt động phòng vệ rủi ro còn chưa được chú trọng.

Tính đến hết tháng 5/2020, TTCK đã có 2,46 triệu tài khoản nhà đầu tư trên thị trường, gấp 820 lần năm 2000, trong đó có 16.000 tài khoản nhà đầu tư tổ chức và gần 36.000 tài khoản nhà đầu tư nước ngoài. "Đội ngũ nhà đầu tư chuyên nghiệp ngày càng phát triển và mở rộng. Thị trường cũng đã phát triển các loại hình quỹ mới như đã nêu trên, qua đó thúc đẩy tính chuyên nghiệp, giúp việc phân bổ vốn hiệu quả và thị trường phát triển nhanh, bền vững", ông Lực chia sẻ.

Khuyến cáo những điểm cần lưu ý để TTCK hoàn thiện trong thời gian tới, TS. Cấn Văn Lực đưa ra một vài điểm cần cải thiện.

Thứ nhất, quy mô và thanh khoản TTCK Việt Nam mặc dù tăng trưởng mạnh, song vẫn còn khá nhỏ so với các nước trong khu vực và tính ổn định chưa cao. Giá trị vốn hóa TTCK của Việt Nam (bao gồm cả cổ phiếu và trái phiếu) năm 2019 tương đương 102,6% GDP ở mức thấp so với các nước (Nhật Bản 337%, Singapore 257%, Thái Lan 161%, Malaysia 215%, Philippines 107%...). Hiện nay, TTCK Việt Nam chỉ mới được Tổ chức tính toán chỉ số chứng khoán toàn cầu (FTSE) đưa vào danh sách theo dõi nâng hạng từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi. Theo đó, cần có kế hoạch và giải pháp cụ thể để TTCK Việt Nam được nâng hạng lên thị trường mới nổi đến năm 2023 theo yêu cầu của Chính phủ.

Tiếp theo, nguồn cung hàng hóa, sản phẩm trên thị trường còn chưa phong phú, đa dạng, chất lượng các công ty niêm yết và các công ty chứng khoán chưa cao. Trong số 1.723 mã cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên 2 Sở GDCK (Hà Nội và TP. HCM) vẫn còn một số doanh nghiệp nhỏ, hoạt động chưa hiệu quả, năng lực quản trị còn ở mức thấp. Các mảng khác của thị trường như sản phẩm quỹ đầu tư, sản phẩm liên kết bảo hiểm, hợp đồng quyền chọn, đầu tư có cam kết bảo toàn vốn,… chưa được cung cấp.

TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh, cơ ngơi này có khang trang, bề thế hay không còn tùy thuộc vào tầm nhìn, chiến lược, sách lược và hành động của các bên liên quan. Mặc dù vậy, chúng ta có quyền tin tưởng rằng TTCK Việt Nam sẽ tiếp tục vươn xa hơn nữa để 20 năm sau ta nhìn lại sẽ thấy một “cơ đồ khang trang và vững chắc hơn”.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25175.00 25177.00 25477.00
EUR 26671.00 26778.00 27961.00
GBP 31007.00 31194.00 32152.00
HKD 3181.00 3194.00 3297.00
CHF 27267.00 27377.00 28214.00
JPY 159.70 160.34 167.58
AUD 16215.00 16280.00 16773.00
SGD 18322.00 18396.00 18933.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18215.00 18288.00 18819.00
NZD   14847.00 15342.00
KRW   17.67 19.30
DKK   3582.00 3713.00
SEK   2293.00 2380.00
NOK   2270.00 2358.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ