Thị phần môi giới phái sinh quý 3: Tăng tốc và lật đổ

Nhàđầutư
Sự tham gia ngày càng tích cực của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán phái sinh là chất xúc tác mạnh thúc đẩy các công ty chứng khoán trên đường đua giành thị phần.
NGỌC TRÂM
11, Tháng 10, 2018 | 11:53

Nhàđầutư
Sự tham gia ngày càng tích cực của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán phái sinh là chất xúc tác mạnh thúc đẩy các công ty chứng khoán trên đường đua giành thị phần.

racing horse

Cuộc đua giành thị phần môi giới phái sinh đang diễn ra hết sức quyết liệt 

Thống kê về thị phần môi giới phái sinh mà HNX vừa công bố cho thấy, trong TOP 5 công ty chứng khoán dẫn đầu về thị phần môi giới hợp đồng tương lai, hay còn gọi là thị trường phái sinh, chỉ có 2 công ty gia tăng được thị phần trong quý vừa qua, đó là Công ty chứng khoán Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBS) và Công ty chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HSC).

Trong đó tốc độ gia tăng thị phần của VPBS đạt mức cao nhất, tới 41%, từ mức 6,99% thị phần trong nửa đầu năm lên mức 9,87% vào cuối quý 3. Theo sau là HSC, tăng 3,6%, từ mức 24,46% thị phần lên mức 25,35%, vươn lên vị trí dẫn đầu trong bảng xếp hạng môi giới phái sinh quý 3, soán ngôi đầu của VNDIRECT (VND).  

Cũng trong TOP 5 này, trong quý 3, Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) có tốc độ giảm thị phần mạnh nhất, lên tới 13,97%, giảm từ mức 17,9% thị phần trong nửa đầu năm nay xuống còn 15,4% thị phần vào ngày cuối cùng của quý 3.

Một ông lớn thuộc TOP 5 khác có tốc độ giảm thị phần chỉ sau SSI là VND. Từ vị trí dẫn đầu thị phần, công ty này giờ đây đã bị đẩy xuống hàng thứ 2 do tốc độ giảm thị phần ở mức 10,6%. Thị phần của VND tới cuối quý 3 chỉ còn 23,9%, giảm 2,84% thị phần so với hồi cuối quý 2.

Công ty Chứng khoán MB (MBS) cũng trong hoàn cảnh tương tự với SSI và VND khi thị phần bị thu hẹp đi 6,37%, tương đương với việc mất đi 1,08% thị phần trong quý và đứng ở mức 15,88%.

Ở nhóm sau, các công ty đều có sự gia tăng thị phần trong quý. Thị phần của Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tăng từ mức 4,27% lên 4,65% vào cuối quý 3. Đứng tiếp theo là Công ty Chứng khoán Bản Việt với tỷ lệ thị phần là 2,84%, tăng từ mức 2,61% hồi cuối quý 2.

Các tân binh trên thị trường môi giới chứng khoán phái sinh là Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, KIS Việt Nam và Chứng khoán Rồng Việt có tỷ lệ thị phần tương ứng là 1,39%, 0,43% và 0,21%.

Mỏ vàng phát lộ 

Thống kê của Sở GDCK Hà Nội (HNX) cho thấy, kể từ thời điểm thị trường chứng khoán phái sinh chính thức mở cửa với hợp đồng tương lai chỉ số VN30 đến nay, sau hơn 1 năm triển khai, hoạt động giao dịch có sự tăng trưởng tốt và ổn định. Khối lượng giao dịch bình quân một phiên tăng trưởng ấn tượng từ mức 10.954 hợp đồng/ngày vào cuối năm 2017 lên mức 62.979 hợp đồng/ngày trong năm 2018, gấp 5,75 lần so với năm 2017. Tính đến hết ngày 13/9/2018, tổng khối lượng giao dịch của thị trường đạt 12.064.748 hợp đồng, trong đó tập trung chủ yếu ở các nhà đầu tư cá nhân trong nước (chiếm 98,56%). 

Tính đến ngày 13/9/2018, khối lượng hợp đồng qua đêm (OI) toàn thị trường đạt 15.366 hợp đồng, gấp 1,9 lần so với thời điểm cuối năm 2017 và gấp 76 lần so với ngày đầu khai trương thị trường.

Trong khi đó hệ thống giao dịch ghi nhận số lượng 44.663 tài khoản, trong đó số tài khoản đã có giao dịch là 14.867 tài khoản (chiếm 33%), số tài khoản nhà đầu tư cá nhân chiếm 99,76%. Sự tham gia của nhà đầu tư tổ chức trong nước nhỏ, chiếm khoảng 0,22% tổng số tài khoản, tương đương với 1,38% khối lượng giao dịch toàn thị trường. 

Đáng chú ý là giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài tăng đáng kể, đặc biệt kể từ thời điểm tháng 5/2018 khối lượng giao dịch của khối nhà đầu tư này tăng mạnh, đến ngày 13/9 đã đạt 30.971 hợp đồng, gấp 13,34 lần tổng khối lượng giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài trong cả năm 2017. Tổ chức nước ngoài bắt đầu tham gia giao dịch từ tháng 4/2018 với khối lượng giao dịch tính đến 13/9 đạt 11.049 hợp đồng.

  

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24600.00 24610.00 24930.00
EUR 26213.00 26318.00 27483.00
GBP 30551.00 31735.00 31684.00
HKD 3105.00 3117.00 3219.00
CHF 27051.00 27160.00 28008.00
JPY 159.87 160.51 167.97
AUD 15844.00 15908.00 16394.00
SGD 18015.00 18087.00 18623.00
THB 664.00 667.00 694.00
CAD 17865.00 17937.00 18467.00
NZD   14602.00 15091.00
KRW   17.66 19.27
DKK   3523.00 3654.00
SEK   2299.00 2389.00
NOK   2259.00 2349.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ