Sacombank báo lãi hơn 3.000 tỷ đồng, nợ xấu nhóm 4 tăng mạnh

Nhàđầutư
Ngân hàng Sài gòn Thương tín (Sacombank) vừa công bố BCTC hợp nhất quý 4/2019 với kết quả kinh doanh có nhiều điểm sáng. Cả năm 2019, lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt 3.216 tỷ đồng, tăng 43% so với năm 2018, cao hơn 21% so với kế hoạch đề ra.
ĐÌNH VŨ
06, Tháng 02, 2020 | 14:19

Nhàđầutư
Ngân hàng Sài gòn Thương tín (Sacombank) vừa công bố BCTC hợp nhất quý 4/2019 với kết quả kinh doanh có nhiều điểm sáng. Cả năm 2019, lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt 3.216 tỷ đồng, tăng 43% so với năm 2018, cao hơn 21% so với kế hoạch đề ra.

Theo BCTC hợp nhất quý 4/2019 của Sacombank, đóng góp chủ yếu vào lợi nhuận ngân hàng vẫn là thu nhập thuần từ lãi đạt 9.180 tỷ đồng, tăng hơn 20% so với năm 2018. Ngoài ra, các hoạt động khác của Sacombank đều ghi nhận mức tăng trưởng khá cao như: Hoạt động dịch vụ thu về 3.322 tỷ đồng, tăng 23,8%; hoạt động kinh doanh ngoại hối thu về 608 tỷ đồng, tăng 51,6%; lãi thuần từ các hoạt động khác ghi nhận 1.421 tỷ đồng, tăng 52,4%.

Chi phí hoạt động năm 2019 của ngân hàng cũng tăng mạnh 18% lên mức 9.265 tỷ đồng. Chi phí dự phòng rủi ro của ngân hàng cũng tăng mạnh 35% lên mức 2.152 tỷ đồng.

Hoạt động mua nợ của ngân hàng đến thời điểm cuối năm 2019 chỉ đạt 423 tỷ đồng, giảm 28,6% so với đầu năm. Các khoản phải thu của Sacombank có sự chuyển biến tích cực khi giảm từ 23.729 tỷ đồng hồi đầu năm xuống còn 22.259 tỷ đồng; các khoản lãi, phí phải thu cũng giảm 18,5% xuống còn 19.538 tỷ đồng. Tuy nhiên, các tài sản có khác tới thời điểm cuối năm 2019 tăng mạnh 31,6% lên mức 1.561 tỷ đồng.

Sacombank không thuyết minh cụ thể số nợ xấu tại VAMC, tuy nhiên, số nợ xấu này thường được trình bày ở khoản mục chứng khoán đầu tư giữ đến ngày đáo. Khoản mục này hiện là 33.647 tỷ đồng, giảm hơn 6.000 tỷ so với hồi đầu năm. Con số này gần như không giảm so với cuối tháng 9/2019. Trước đó, cuối tháng 6/2019, số trái phiếu đặc biệt VAMC mà Sacombank còn nắm giữ là 35.515 tỷ đồng.

ong_duong_cong_minh

Ông Dương Công Minh bắt đầu làm việc tại Sacombank với vị trí Chủ tịch HĐQT từ sau ĐHĐCĐ năm 2017 của ngân hàng (ngày 30/6/2017)

Từ những kết quả kinh doanh nêu trên, tổng lợi nhuận trước thuế cả năm ghi nhận mốc 3.216 tỷ đồng, tăng 43% so với cuối năm 2018, cao hơn 21% so với kế hoạch đề ra.

Tổng tài sản của Sacombank tính đến ngày 31/12/2019 đạt 453.581 tỷ đồng, tăng 11,7% so với cuối năm 2018, bằng 99% kế hoạch. Trong đó, dư nợ cho vay khách hàng đạt 292.058 tỷ đồng, tăng 15,3%, 98% kế hoạch; Huy động đạt 400.844 tỷ đồng, tăng 14,7% so với đầu năm 2019, bằng 94% kế hoạch. Trong đó, nợ ngắn hạn chiếm 51,9%, còn lại là nợ trung và dài hạn.

Tỷ lệ nợ xấu đến thời điểm 31/12/2019 là 1,9%, giảm so với hồi đầu năm là 2,2%. Trong đó, nợ các nhóm 4, 5 tăng lần lượt là 32% và 1,3% so với đầu năm 2019.

Năm 2019 tiếp tục Sacombank tiếp tục nỗ lực xử lý nợ xấu bằng việc liên tiếp rao bán, hạ giá các lô đất là tài sản đảm bảo cho các khoản vay.

Đầu tháng 5/2019, Sacombank cho biết vừa thanh lý toàn bộ 2.455 quyền sử dụng đất với tổng diện tích 602.225m2 thuộc dự án Khu dân cư phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ. Dự án này cách trung tâm TP. Cần Thơ khoảng 4,5 km, cách sân bay quốc tế Cần Thơ khoảng 2,5 km.

Trước đó, hồi tháng 3/2019, dự án này được Sacombank rao bán với giá 3.424 tỷ đồng, giảm hơn 1.100 tỷ đồng so với nửa năm trước đó. 

Năm 2018 Sacombank cũng ráo riết rao bán các dự án bất động sản là tài sản đảm bảo cho các khoản nợ xấu. Để bán được suôn sẻ, nhiều dự án đã được Sacombank hạ mức giá chào xuống cả nghìn tỷ đồng. Trong đó có những dự án lớn trước đây là sở hữu của nhóm ông Trầm Bê.

Trước thông tin cho rằng, ông Dương Công Minh về Sacombank là vì quan tâm, muốn thâu tóm các bất động sản là tài sản đảm bảo cho các khoản nợ xấu, ông Minh thẳng thắn trả lời: “Trong thời gian qua, tôi đã không mua tài sản bất động sản nào, tôi hứa là sẽ không mua bất kỳ tài sản bất động sản nào của Sacombank”.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ