Rào cản kinh doanh nào khiến 48% doanh nghiệp tư nhân thua lỗ?

Nhàđầutư
Các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI có tỷ lệ thua lỗ cao hơn hẳn so với doanh nghiệp nhà nước. Tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân thua lỗ hiện lên đến hơn 48% tổng số doanh nghiệp.
HỒ MAI
22, Tháng 03, 2018 | 19:38

Nhàđầutư
Các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI có tỷ lệ thua lỗ cao hơn hẳn so với doanh nghiệp nhà nước. Tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân thua lỗ hiện lên đến hơn 48% tổng số doanh nghiệp.

Ngày 22/3, Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, Ban Kinh tế trung ương và Trường Đại học Kinh tế quốc dân đã tổ chức Hội thảo quốc gia Kinh tế Việt Nam năm 2017 và triển vọng năm 2018 với chủ đề “Tháo gỡ rào cản đối với sự phát triển của doanh nghiệp", đồng thời công bố ấn phẩm “Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2017”.

Phát biểu tại Hội thảo, GS. TS Trần Thọ Đạt, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân nhận định, mặc dù môi trường kinh doanh đã được cải thiện sau những nỗ lực xây dựng Nhà nước kiến tạo, giúp số lượng doanh nghiệp và lượng vốn đăng ký tăng mạnh trong năm 2017, song khu vực doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

Tran Tho Dat

 GS. TS Trần Thọ Đạt, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân phát biểu tại Hội thảo.

Tỷ lệ doanh nghiệp thua lỗ tăng cao liên tục từ năm 2012 và hiện nay lên đến hơn 48% tổng số doanh nghiệp. Trong 3 khu vực, các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có tỷ lệ thua lỗ cao hơn hẳn so với doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Nếu doanh nghiệp FDI thua lỗ có thể một phần do hoạt động “chuyển giá”, thì con số hơn 48% DNTN thua lỗ (so với hơn 16% thuộc khu vực Nhà nước) đã cho thấy rõ nét những khó khăn này.

"Những kết quả trên cho thấy các doanhnghiệp nói chung và DNTN nói riêng vẫn đang đối diện với những rào cản phát triển, trong đó có các rào cản khi tham gia thị trường các yếu tố sản xuất quantrọng như vốn, lao động, đất đai, công nghệ, cơ sở hạ tầng và logistics; cũng như gặp nhiều tồn tại bất hợp lý khi khởi sự kinh doanh hay thực hiện những nghĩa vụ thuế và hải quan,.... Điều này ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp,theo đó ảnh hưởng đến tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế", GS. TS Trần Thọ Đạt nói.

PGS. TS Tô Trung Thành (Đại diện nhóm nghiên cứu, Trường đại học Kinh tế Quốc dân) đã chỉ ra những khó khăn, bất lợi mà khu vực doanh nghiệp tư nhân đang phải đối mặt. Trong đó, tiếp cận tín dụng vẫn là một trong những trở ngại lớn nhất.

Số liệu điều tra trực tiếp 695 doanh nghiệp của ấn phẩm cho thấy có tới 58% doanh nghiệp được hỏi cho biết đã từng nộp đơn xin vay vốn ngân hàng. Tỷ lệ này cũng tăng lên theo quy mô doanh nghiệp, trong khi chỉ có 50% doanh nghiệp vừa và nhỏ nộp đơn vay vốn thì tỷ lệ đối với doanh nghiệp qui mô lớn là 70%. Tỷ lệ này cũng thay đổi theo hình thức sở hữu doanh nghiệp, doanh đó DNNN và DNTN có tỷ lệ nộp đơn vay vốn lần lượt là 68% và 60%, trong khi tỷ lệ này đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là 48%.

Trong số các doanh nghiệp có nộp đơn, chỉ có 1,73% cho biết mình bị từ chối vốn vay, 22,28% được ngân hàng chấp nhận giải ngân một phần, 74,26% doanh nghiệp nghiệp được giải ngân toàn bộ các hồ sơ vay vốn.

Riêng đối với doanh nghiệp đã từng bị ngân hàng từ chối hoặc chỉ được giải ngân một phần, nguyên nhân lớn nhất là do tài sản thế chấp không đủ điều kiện, (84,62% số doanh nghiệp), hay doanh nghiệp từ chối vốn vay do ngân hàng không thể cung cấp gói vay vốn với chi phí và điều kiện tốt hơn các ngân hàng khác (40,38%) và dự án không đủ điều kiện để vay ưu đãi (37,50%).

Về khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, khó khăn được đánh giá nghiêm trọng nhất là khó khăn về lãi suất quá cao và khó khăn về yêu cầu của ngân hàng trong việc doanh nghiệp phải có kế hoạch kinh doanh cụ thể.

Ngoài ra, doanh nghiệp còn gặp phải nhiều khó khăn khác nữa khi tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng như: các thủ tục hành chính; các ngân hàng thiên vị doanh nghiệp, DNNN; dịch vụ tín dụng chưa đa dạng, thiếu sản phẩm tín dụng phù hợp; kỳ hạn được vay vốn không phù hợp; không có dịch vụ bảo lãnh vay vốn; doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp; phải bỏ các chi phí ngoài lãi và phi chính thức; doanh nghiệp gặp khó khăn khi đăng ký quyền sở hữu tài sản.

Cũng theo nghiên cứu của nhóm nghiên cứu Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, chi phí sử dụng lao động trong các doanh nghiệp tăng có xu hướng tăng trong thời gian qua đã làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp khoảng 11,4%. Điều này khiến tỷ lệ doanh nghiệp có lợi nhuận giảm đáng kể từ mức 63,2% xuống còn 40,6%.

Tỷ lệ chi phí logistics trên GDP của Việt Nam đứng mức 20,9% GDP năm 2017, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực ASEAN và chỉ thấp hơn Indonesia khiến doanh nghiệp Việt Nam chật vật trong kiểm soát chi phí. Có tới 44% doanh nghiệp được hỏi nhận định chi phí vận tải đường bộ ở mức cao và rất cao, 17% doanh nghiệp thường xuyên phải trả các khoản phí không chính thức.

Chia sẻ tại Hội thảo này, TS Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), cho rằng, tăng trưởng GDP hiện như miếng bánh chỉ dành cho ông to, doanh nghiệp lớn, trong khi chỉ xét trên thị trường chứng khoán, tính thanh khoản, lợi nhuận các doanh nghiệp nhỏ đều giảm.

TS Võ Trí Thành cho rằng: "Nếu bỏ những đóng góp của các ông lớn như Samsung, Formosa ra khỏi nền kinh tế, còn lại chỉ có các doanh nghiệp Việt Nam với nhau thì tăng trưởng kinh tế Việt Nam không có gì quá đặc sắc. Nói vậy không phải là chê xấu, mà phải nhìn rõ thực tế các doanh nghiệp Việt đang rất khó khăn".

Theo nguyên Phó Viện trưởng CIEM, xử lý cái cũ nhưng cũng phải điều chỉnh ngay cái mới. "Hôm nay 22/3, Việt Nam công bố Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI để đánh giá nhưng đi đến đâu thì cần phá bỏ mọi rào cản, tự do kinh doanh", ông Thành nói.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ