Ông Dương Công Minh sẽ làm gì với "đống nợ xấu" ở Sacombank?

Nhàđầutư
Ông Dương Công Minh, nguyên Chủ tịch HĐQT LienvietPostbank đã được giới thiệu vào danh sách ứng viên HĐQT Sacombank thay cho ông Nguyễn Đức Hưởng. Nhiều đồn đoán cho rằng ông Minh sẽ trở thành Chủ tịch HĐQT lèo lái con thuyền Sacombank trong thời gian tới khi nợ xấu của ngân hàng này lên tới 21,5%/tổng dư nợ.
NGUYỄN THOAN
08, Tháng 06, 2017 | 10:05

Nhàđầutư
Ông Dương Công Minh, nguyên Chủ tịch HĐQT LienvietPostbank đã được giới thiệu vào danh sách ứng viên HĐQT Sacombank thay cho ông Nguyễn Đức Hưởng. Nhiều đồn đoán cho rằng ông Minh sẽ trở thành Chủ tịch HĐQT lèo lái con thuyền Sacombank trong thời gian tới khi nợ xấu của ngân hàng này lên tới 21,5%/tổng dư nợ.

65747837565976img

 Ông Dương Công Minh, Chủ tịch HĐQT Him Lam

Mới đây, 2 ứng cử viên HĐQT Ngân hàng Sài gòn Thương tín (Sacombank) nhiệm kỳ 2017 - 2021 là ông Nguyễn Đức Hưởng và bà Nguyễn Thị Hồng đã thông báo không thể tham gia ứng cử. Trong ĐHĐCĐ bất thường lần thứ 2 vừa diễn ra, Ngân hàng Bưu điện Việt Nam (LienvietPostbank) đã thông qua việc ông Dương Công Minh rút lui khỏi ghế Chủ tịch HĐQT của ngân hàng này và thay vào đó là ông Nguyễn Đức Hưởng.

Sau khi có thông tin trên, nhiều đồn đoán cho rằng ông Minh sẽ về Sacombank tham gia vào công cuộc tái cơ cấu ngân hàng này và rất có thể sẽ trở thành Chủ tịch HĐQT. Những đồn đoán này đang dần được khẳng định khi mới đây ông Minh và ông Phạm Nhật Vinh, nguyên Chủ tịch HĐQT Sacomreal, đã lọt vào danh sách đề cử HĐQT của Sacombank.

Nếu ông Dương Công Minh ngồi vào ghế Chủ tịch HĐQT của Samcombank thì ông có thể làm gì để giải quyết đống nợ xấu của ngân hàng này hiện đang lên tới 21,5%/tổng dư nợ, từ đó đưa ngân hàng này trở lại quỹ đạo tăng trưởng trong thời gian sớm nhất. 

Trong một cuộc họp với giới phân tích chứng khoán ngày 5/6, Sacombank đã công khai các thông tin liên quan đến khoản nợ xấu tồn đọng hiện tại. Theo đó, tổng tài sản có vấn đề của ngân hàng ước tính vào khoảng 80.000 tỷ đồng, tập trung chủ yếu vào 10 nhóm khách hàng. Trong đó có 37.000 tỷ đồng là trái phiếu VAMC, nợ xấu 13.000 tỷ đồng và lãi dự thu phải thoái khoảng 20.000 tỷ đồng.

Định hướng của Sacombank trong thời gian tới là tập trung xử lý tài sản có vấn đề và chuyển đổi thành tài sản sinh lãi. 

Chính vì vậy, có lẽ thách thức lớn nhất với ông Dương Công Minh khi ngồi vào ghế nóng Sacombank chính là con số gần 80 nghìn tỷ đồng tài sản có vấn đề này. Được biết, trong số nợ xấu này, có những khoản vay liên quan đến bất động sản rất khó xử lý.

Tuy nhiên, nhiều nhận định cho rằng ông Dương Công Minh có nhiều thuận lợi khi đề án tái cơ cấu Sacombank sau sáp nhập được NHNN duyệt với nhiều điểm thuận lợi cho việc xử lý nợ xấu.

Đầu tiên là 37.300 tỷ đồng trái phiếu VAMC được cho phép thực hiện trích lập dự phòng theo năng lực tài chính trong thời gian 10 năm. Với các tài sản tồn đọng, NHNN cho phép Sacombank bán nợ theo giá trị thị trường, trường hợp giá bán nợ thấp hơn dư nợ gốc thì chênh lệch được phân bổ dần vào chi phí hoạt động kinh doanh trong thời gian tối đa 5 năm.

Về dự phòng rủi ro tín dụng, Sacombank được trích lập và phân bổ dự phòng rủi ro tín dụng theo năng lực tài chính. Riêng đối với khoản lãi dự thu Sacombank được phép khoanh trên báo cáo tài chính đến thời điểm 31/12/2015 và phân bổ vào chi phí hoạt động kinh doanh theo năng lực tài chính trong thời gian tối đa 10 năm.

Các khoản đầu tư góp vốn mua cổ phần vượt 11% vốn điều lệ công ty hoặc sở hữu chéo cũng được chấp thuận lộ trình xử lý dần dần theo đề án, tiến tới đảm bảo các quy định pháp luật.

Không những thế, ông Dương Công Minh còn là người có kinh nghiệm dày dặn mấy chục năm chinh chiến trên thị trường bất động sản, làm Chủ tịch HĐQT Him Lam, một tập đoàn kinh doanh địa ốc lớn. Điều này làm cho vấn đề xử lý nợ xấu liên quan tới bất động sản có thể sẽ khả thi hơn. 

Với việc được duyệt đề án tái cơ cấu, Sacombank chính thức chấm dứt thời gian chờ đợi (1,5 năm từ tháng 10/2015), để bắt tay vào quá trình tái cơ cấu./.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25154.00 25454.00
EUR 26614.00 26721.00 27913.00
GBP 31079.00 31267.00 32238.00
HKD 3175.00 3188.00 3293.00
CHF 27119.00 27228.00 28070.00
JPY 158.64 159.28 166.53
AUD 16228.00 16293.00 16792.00
SGD 18282.00 18355.00 18898.00
THB 667.00 670.00 698.00
CAD 18119.00 18192.00 18728.00
NZD   14762.00 15261.00
KRW   17.57 19.19
DKK   3574.00 3706.00
SEK   2277.00 2364.00
NOK   2253.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ