Nguồn cung nhà ở tại Hà Nội và TP.HCM giảm mạnh

Trong 6 tháng đầu năm nay, ở cả hai thành phố lớn Hà Nội và TP.HCM đều có sự sụt giảm về nguồn cung nhà ở.
THANH HƯƠNG
18, Tháng 07, 2019 | 07:36

Trong 6 tháng đầu năm nay, ở cả hai thành phố lớn Hà Nội và TP.HCM đều có sự sụt giảm về nguồn cung nhà ở.

Theo báo cáo tình hình giao dịch bất động sản quý II và 6 tháng đầu năm 2019 do Hội Môi giới bất động sản Việt Nam công bố ngày 17/7, không chỉ nguồn cung trên thị trường sụt giảm, giao dịch trên thị trường bất động sản trong 6 tháng đầu năm nay cũng giảm, cả nước có khoảng 32.233 giao dịch, trong đó 19.770 giao dịch căn hộ, 12.463 giao dịch nhà ở thấp tầng.

So với cùng kỳ năm 2018, nguồn cung căn hộ trong 6 tháng đầu năm nay giảm 1.525 căn hộ, riêng phân khúc căn hộ bình dân (giá dưới 25 triệu đồng/m2) giảm 4.119 căn, căn hộ cao cấp (giá từ 35 triệu đồng/m2 trở lên) giảm 1.518 căn.

ngr

Nguồn cung nhà ở tại Hà Nội và TP.HCM giảm mạnh.

Tính chung 6 tháng đầu năm nay, lượng cung bất động sản nhà ở tại Hà Nội đạt 12.976 sản phẩm, bằng 76,05% so với cùng kỳ năm trước.

Lượng giao dịch bất động sản 6 tháng đầu năm tại Hà Nội đạt 8.899 sản phẩm, bằng 68,9% so với cùng kỳ năm trước.

Tỉ lệ hấp thụ bất động sản nhà ở 6 tháng đầu năm đạt 68,6%, đặc biệt trong quý 2 tỉ lệ hấp thụ căn hộ bình dân lên tới 84,7%.

Tại TP.HCM, trong 6 tháng đầu năm cũng ghi nhận sự sụt giảm mạnh cả về nguồn cung và lượng giao dịch trên thị trường.

Theo đó, lượng cung bất động sản nhà ở tại TP.HCM trong 6 tháng đầu năm đạt 10.715 sản phẩm, bằng 39,1% so với cùng kỳ năm trước.

Lượng giao dịch bất động sản nhà ở 6 tháng đạt 8.560 sản phẩm, bằng 46.8% so với cùng kỳ năm trước. Tỉ lệ hấp thụ bất động sản nhà ở đạt 79,9%, giá bán căn hộ chung cư quý 2 tăng khoảng 5% so với quý 1, giá đất nền cũng tăng 2-3% so với quý 1.

Hội Môi giới bất động sản Việt Nam cho rằng nguyên nhân chính dẫn tới sự sụt giảm thị trường này là do Ngân hàng Nhà nước siết tín dụng với đầu tư, kinh doanh bất động sản.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ