Ngành gỗ Việt Nam xuất khẩu trên 10 tỷ USD mỗi năm

Nhàđầutư
Mỗi năm, ngành gỗ xuất khẩu trung bình trên 10 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn thứ 5 thế giới, thứ 2 châu Á và đứng đầu khu vực Đông Nam Á.
NGUYỄN TRI
10, Tháng 03, 2024 | 06:28

Nhàđầutư
Mỗi năm, ngành gỗ xuất khẩu trung bình trên 10 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn thứ 5 thế giới, thứ 2 châu Á và đứng đầu khu vực Đông Nam Á.

Năm 2024 phấn đấu xuất khẩu gỗ đạt 15 tỷ USD

Chế biến, xuất khẩu các sản phẩm gỗ đã và đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng, chủ lực trong nền kinh tế của Việt Nam.

Theo đó, mỗi năm, ngành gỗ xuất khẩu trung bình trên 10 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn thứ 5 thế giới, thứ 2 châu Á và đứng đầu khu vực Đông Nam Á.

"Ngành gỗ đã ghi dấu ấn từ các sản phẩm nguyên liệu đầu vào cho các ngành chế biến, xây dựng đến sản phẩm có tính hoàn thiện cao. Thị trường xuất khẩu đồ gỗ Việt đã được mở rộng đến 140 quốc gia và vùng lãnh thổ", ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) nhận định.

Theo các nghiên cứu quốc tế, thị trường đồ gỗ nội ngoại thất sẽ đạt khoảng 650 tỷ USD vào năm 2030 và với tốc độ tăng trưởng kép là 5,7% trong giai đoạn 2022 – 2030. Trong đó, nhu cầu sử dụng đồ gỗ ngoài trời được dự báo tăng trưởng khả quan, xuất phát từ xu hướng người tiêu dùng thế giới ngày càng ưa chuộng các vật liệu có nguồn gốc tự nhiên, thân thiện với môi trường.

z5232210953070_9eed56e81f59915d8cf466cdea381c44

Hội chợ quốc tế hàng phong cách ngoài trời Quy Nhơn 2024 (diễn ra tại TP. Quy Nhơn, Bình Định) từ ngày  9 - 12/3. Ảnh: T.X

Theo ông Phú, đây có thể coi là động lực để ngành gỗ tiếp tục khắc phục, vượt qua những khó khăn, thách thức trước mắt, có chiến lược phát triển bền vững trong dài hạn, tiếp tục nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thêm các thị trường xuất khẩu mới.

Đồng thời, phát huy các phân khúc sản phẩm thế mạnh tại các thị trường truyền thống. Bên cạnh đó, tích cực xúc tiến thương mại thông qua việc tổ chức, tham gia các triển lãm, hội chợ thương mại, giới thiệu sản phẩm đến các doanh nghiệp đối tác và người tiêu dùng để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm cũng như mở rộng quan hệ hợp tác, thu hút đầu tư.

Trong khi đó, ông Nguyễn Quốc Trị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT cho hay, năm 2023, giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản Việt Nam đạt 14,5 tỷ USD, xuất khẩu đến 140 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Trong năm 2024, triển vọng xuất khẩu gỗ trong nước khá tích cực với 2 tháng đầu năm đạt trên 2 tỷ USD, cả nước đặt chỉ tiêu giá trị xuất khẩu năm đạt 15 tỷ USD.

"Để đạt được những mục tiêu phát triển, cần có giải pháp căn cơ trong đổi mới công nghệ, cung ứng nguyên liệu và đặc biệt là tìm thị trường…", ông Trị nói.

Bình Định trở thành trung tâm chế biến lâm sản công nghệ cao

Theo ông Phạm Anh Tuấn, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định, hiện, toàn tỉnh có gần 10.000 ha rừng trồng cây gỗ lớn; diện tích rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC) gần 15.000 ha (trong đó diện tích rừng trồng gỗ lớn hơn 7.600 ha).

Dự kiến đến năm 2025, tổng diện tích rừng trồng cây gỗ lớn tập trung của tỉnh này đạt 10.000 ha, diện tích rừng trồng được cấp chứng chỉ rừng gần 16.000 ha. Định hướng đến năm 2030, diện tích rừng trồng sản xuất cây gỗ lớn tập trung đạt trên 50.000 ha, tỷ lệ sản lượng gỗ lớn bình quân đạt trên 60%.

IMG_4585

Bình Định được mệnh danh là một trong những "thủ phủ ngành gỗ" của cả nước. Ảnh: T.X

"Kết hợp với phương thức tổ chức sản xuất mới, theo chuỗi giá trị từ trồng rừng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm gắn với đẩy mạnh thu hút các dự án đầu tư chế biến sâu, sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm sản sẽ giúp Bình Định sớm đạt được mục tiêu trở thành trung tâm chế biến lâm sản công nghệ cao của vùng", ông Tuấn thông tin.

Cùng với định hướng phát triển rừng trồng gỗ lớn, Bình Định còn là một trong những địa phương có hoạt động chế biến, xuất khẩu gỗ lớn nhất trong cả nước, được mệnh danh là một trong những "thủ phủ ngành gỗ" của cả nước, là một trong các trung tâm phát triển các cụm liên kết ngành về chế biến gỗ và lâm sản.

Bởi, tỉnh Bình Định hội đủ những điều kiện như: vị trí thuận lợi là cửa ngõ của Tây Nguyên, kết nối chặt chẽ với các vùng nguyên liệu nối với cảng biển Quy Nhơn...

Những điều kiện thuận lợi này giúp Bình Định trở thành là một trong những tỉnh có số lượng lớn các nhà máy chế biến gỗ lớn nhất trong cả nước, tập trung ở Khu công nghiệp Phú Tài và Khu công nghiệp Long Mỹ, với khoảng 300 doanh nghiệp chế biến gỗ đang hoạt động. Trong đó, 245 doanh nghiệp đã đi vào hoạt động, tổng vốn đầu tư khoảng 12.000 tỷ đồng.

Đồng thời, nguồn nhân lực cho ngành chế biến gỗ có quy mô lớn, trong đó đa số là công nhân có tay nghề bậc cao. Sản phẩm chế biến chủ yếu là đồ gỗ nội thất, ngoại thất, sân vườn và các sản phẩm khác (như dăm mảnh, viên nén).

Thị trường tiêu thụ chính tại: Mỹ, EU, Anh, Úc, Nhật Bản.... Một số nhóm hàng có giá trị kim ngạch lớn, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển ngành gỗ trên địa bàn Bình Định và cả nước.

Đồng qua điểm, Cục trưởng Cục xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) đánh giá, với lợi thế vị trí địa lý, hạ tầng giao thông, lực lượng lao động và định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Bình Định đã thu hút được nhiều doanh nghiệp sản xuất, chế biến gỗ quy mô lớn.

Từ đó, giúp tỉnh Bình Định trở thành một trong 4 trung tâm chế biến gỗ xuất khẩu lớn nhất cả nước. Đặc biệt, Bình Định ngày càng khẳng định ưu thế về các mặt hàng gỗ kỹ thuật, đồ gỗ ngoại thất trong chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế.

Từ ngày 9 - 12/3, hội chợ quốc tế hàng phong cách ngoài trời Quy Nhơn 2024 (diễn ta tại TP. Quy Nhơn, Bình Định) với sự quy tụ của gần 100 doanh nghiệp, trưng bày gần 1.000 gian hàng.

Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản tỉnh Bình Định, đây là hội chợ quốc tế đồ gỗ ngoài trời xuất khẩu đầu tiên ở Bình Định - 1 trong 4 thủ phủ xuất khẩu gỗ lớn nhất Việt Nam. 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ