Ngân hàng lãi khủng, nhân viên 'nhấp nhổm' chờ thưởng tết

Nhàđầutư
Ngân hàng là một trong những ngành nghề có thu nhập cao nhất hiện nay ở Việt Nam. Do vậy, thu nhập hay mức thưởng Tết âm lịch là những thông tin rất được quan tâm.
MINH TRANG
11, Tháng 01, 2019 | 12:13

Nhàđầutư
Ngân hàng là một trong những ngành nghề có thu nhập cao nhất hiện nay ở Việt Nam. Do vậy, thu nhập hay mức thưởng Tết âm lịch là những thông tin rất được quan tâm.

thuong-tet-nhan-vien-ngan-hang

Năm 2018, nhiều ngân hàng lãi khủng

Phải tới cuối tháng 1 mới tới "mùa" báo cáo tài chính của các ngân hàng, song nhiều nhà băng không ngần ngại tiết lộ mức lợi nhuận khủng trong năm vừa qua.

Ấn tượng nhất phải kể đến Vietcombank khi báo lãi trước thuế 18.300 tỷ đồng, tăng tới 62% so với năm 2017 và như phát biểu gần đây của Chủ tịch HĐQT ông Nghiêm Xuân Thành, là bằng tổng lợi nhuận của các nhà băng xếp thứ 2 và thứ 3 cộng lại.

Trong khối "Big 4", trong khi Agribank và Vietinbank vẫn chưa công bố, thì cái tên còn lại - BIDV cho biết lãi trước thuế ước tính năm 2018 là 9.900 tỷ đồng, là mức kỷ lục từ trước đến nay, dù cho ngân hàng này trải qua năm 2018 với không ít khó khăn.

Về phía các ngân hàng tư nhân, TPBank cũng vừa công bố kết quả kinh doanh 2018 với lợi nhuận trước thuế gần gấp đôi so với 2017 đạt 2.258 tỉ đồng, vượt mục tiêu đại hội đồng cổ đông đề ra. Hay như Sacombank, mặc dù vẫn phải tăng cường trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu nhưng cũng thông báo lãi tới hơn 2.200 tỉ đồng trong năm 2018, vượt 20% kế hoạch.

Một vài kết quả trên đây cho thấy các nhà băng vừa trải qua một niên độ tài chính nữa với gam màu "sáng". Báo cáo gần đây của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cũng nhận định, tổng lợi nhuận sau thuế của các định chế tài chính 2018 ước tăng 33% so với năm 2017. Trong đó, riêng tổng lợi nhuận của các tổ chức tín dụng ước tăng 40%.

Với hàng trăm nghìn nhân viên, cán bộ các ngân hàng, một trong những mối quan tâm lớn nhất của họ hiện nay chính là mức thưởng tết, liệu có tăng tương ứng với kết quả kinh doanh hay không.

Là ngân hàng đầu tiên công bố mức thưởng Tết, Maritime Bank quyết định bổ sung khoản thưởng mới tương đương 1 tháng lương bình quân (theo thời gian làm việc thực tế) khi thỏa mãn hai điều kiện là ngân hàng hoàn thành kế hoạch kinh doanh hàng năm, cán bộ nhân viên có đánh giá xếp loại và dự kiến xếp loại từ B trở lên.

Khoản trên được chi trả sau Tết Dương lịch và hoàn toàn độc lập với khoản thưởng hiệu suất theo kết quả kinh doanh và xếp loại cá nhân. Ngoài khoản thưởng bổ sung trên, theo qui định hàng năm của Maritime Bank, còn chi các khoản tạm ứng trước Tết Âm lịch và quyết toán thưởng hiệu suất sau Tết.

Cùng với đó, Công đoàn ngân hàng thông báo sẽ trích quỹ công đoàn tặng quà Tết bằng hiện vật (giò chả, bánh chưng và các phần quà khác phù hợp văn hóa địa phương) với tối đa 200.000 đồng/người.

Ngoài Maritime Bank, các ngân hàng khác vẫn chưa có thông báo chính thức về mức thưởng Tết năm nay. Sự chú ý sẽ đổ dồn vào các ngân hàng top đầu.

Anh Quân, nhân viên Vietcombank một chi nhánh tại Quận Hà Đông (Hà Nội) cho biết đặc thù của Vietcombank là thưởng tết dựa theo kết quả trong năm của từng chi nhánh. Năm vừa qua chi nhánh của anh vượt 15% chỉ tiêu được giao, do vậy các nhân viên đều hi vọng được thưởng lớn.

Tương tự, anh Hà, một nhân viên tín dụng của BIDV cho biết mức thưởng tết sẽ tuỳ thuộc vào kết quả làm việc cả năm của cả chi nhánh cũng như từng bộ phận, cá nhân. Chưa có thông tin chính thức song anh Hà kỳ vọng có thể được thưởng đến 3 tháng lương.

Trong khi đó, một nhân viên Vietinbank tại Quận Hoàng Mai lại bày tỏ sự băn khoăn nhất định, trước thực tế ngân hàng đang gặp phải một số khó khăn trong hoạt động.

Một căn cứ để nhân viên ngân hàng "dự báo" được trước mức thưởng Tết là dựa vào chế độ đãi ngộ thường kỳ của ngân hàng, thể hiện rõ nhất ở thu nhập bình quân hàng tháng. 9 tháng đầu năm 2018, Vietcombank trả cho mỗi người lao động trung bình 38 triệu đồng/ tháng, BIDV là 28,5 triệu đồng, Techcombank là 27  triệu đồng, VIB là 22,6 triệu đồng.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ