Chuyên gia VinaCapital: Định giá thị trường đã về mức hấp dẫn

Nhàđầutư
Mức dự phóng tăng trưởng lợi nhuận cho các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam trong năm 2024 là 25%. Đây là con số rất cao, vượt xa so với nhiều thị trường trong khu vực ASEAN như: Singapore (12,4%), Malaysia (12,4%), Thái Lan (15,6%)….
TẢ PHÙ
03, Tháng 10, 2023 | 14:23

Nhàđầutư
Mức dự phóng tăng trưởng lợi nhuận cho các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam trong năm 2024 là 25%. Đây là con số rất cao, vượt xa so với nhiều thị trường trong khu vực ASEAN như: Singapore (12,4%), Malaysia (12,4%), Thái Lan (15,6%)….

IMG_2669

Toàn cảnh sự kiện

Trong sự kiện gặp gỡ báo chí ngày 3/10, bà Nguyễn Hoài Thu - Tổng giám đốc Điều hành Quỹ Đầu tư chứng khoán và trái phiếu VinaCapital đã có những chia sẻ về nhịp điều chỉnh của thị trường chứng khoán trong thời gian vừa qua.

Theo đó, bà Thu nhìn nhận chỉ số VN-Index ngắn hạn sẽ tiếp tục có những phiên tăng giảm đan xen. Đây là diễn biến bình thường của thị trường sau khi đã có giai đoạn tăng điểm tốt trong nhiều tháng. Thị trường cần những nhịp điều chỉnh tạm thời để tiếp tục đi lên.

Bà Thu đánh giá: "Định giá TTCK Việt Nam đã về mức hấp dẫn. Thống kê trong giai đoạn 10 năm qua cho thấy VN-Index chỉ có 3 lần trải qua mức P/E và P/B thấp như thời điểm hiện tại. Mức định giá VN-Index cũng rất thấp so với các thị trường trong khu vực ASEAN. Mặt khác, mức chiết khấu định giá đang đứng ở ngưỡng cao nhất 10 năm".

SK Vina Capital 2

 

NDT - SK VinaCapital 3

 

Bà Thu cho rằng các nhà đầu tư với tầm nhìn dài hạn thì không nên quá lo lắng. Tất nhiên, nhà đầu tư cá nhân có thể có những dao động về mặt tâm lý, làm cho sự biến thiên của thị trường diễn ra mạnh hơn. Tuy nhiên, những điều này không quá đáng ngại.

Chuyên gia VinaCapital cũng chỉ ra tăng trưởng lợi nhuận của nhóm doanh nghiệp niêm yết sẽ là động lực thúc đẩy thị trường trong dài hạn.  

Năm 2023, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nên VinaCapital đưa ra mức tăng trưởng cả năm chỉ quanh 0,6%. Nguyên nhân là do tăng trưởng âm ở nhiều lĩnh vực hàng hóa tiêu dùng, bán lẻ, bất động sản, nguyên liệu…. Ngược lại, một số ngành có mức tăng lợi nhuận tốt là công nghệ, ngân hàng, y tế….

Tuy nhiên, điểm sáng là so với đáy quý IV/2022, các ngành nghề đã có mức hồi phục tốt hơn, nhất là nhóm tài chính và công nghệ. Từ đó, bà Thu kỳ vọng "đáy đã qua", lợi nhuận 2 quý cuối năm 2023 của doanh nghiệp sẽ tăng trưởng tốt hơn nửa đầu năm và hơn cả mức cùng kỳ năm ngoái.

NDT - SK VinaCapital 1

 

Đây là động lực tích cực, tạo bàn đạp cho các doanh nghiệp trong năm 2024. Bà Thu đưa ra mức dự phóng tăng lợi nhuận chung cho nhóm doanh nghiệp niêm yết là 25%, trong đó tất cả các lĩnh vực được kỳ vọng tăng trưởng lợi nhuận từ 9,2% đến 56,4%. Con số này là cao nhất nếu so với các thị trường trong khu vực ASEAN như: Singapore (12,4%), Malaysia (12,4%), Thái Lan (15,6%)….

Về mặt rủi ro, bà Thu cho biết thị trường phải đối mặt với một số thách thức từ bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn kéo dài hơn dự kiến; FED tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt lâu dài hơn dự kiến; căng thẳng địa chính trị leo thang. Trong nước, đó là rủi ro về đáo hạn nợ trái phiếu doanh nghiệp; sự hồi phục của ngành bất động sản kéo dài hơn dự kiến; áp lực lạm phát do chi phí lương thực, nguyên vật liệu, giá điện có xu hướng tăng; và áp lực tỷ giá.

Đầu tư gì cho chu kỳ hồi phục?

Bà Thu gợi ý chủ đề đầu tư cho giai đoạn 2023-2024 sẽ tập trung ở lĩnh vực chuyển đổi số với sự tích hợp hệ thống, trí tuệ nhân tạo, dịch vụ Internet và dữ liệu số.

Ngoài ra, kênh đầu tư chứng khoán sẽ tiếp tục hưởng lợi với môi trường lãi suất thấp. VinaCapital cho biết sẽ tập trung theo dõi nhóm chứng khoán, ngân hàng, khu công nghiệp. 

Bên cạnh đó, quỹ này còn chỉ ra một số lĩnh vực tiềm năng như bán lẻ với triển vọng phục hồi nhu cầu nội địa; cảng/vận chuyển và công ty xuất khẩu; dầu khí...

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ