'Chính phủ cần chỉ đạo quyết liệt để Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành hoàn thành đúng tiến độ'

Nhàđầutư
Tính đến tháng 8/2019 việc giải ngân mới chỉ đạt 1,07% (khoảng 123 tỷ đồng) mức vốn được giao (dự kiến đến hết năm 2019 chỉ đạt 15,75%), do vậy, nhiều ý kiến cho rằng tiến độ thu hồi đất khó bảo đảm. Nếu điều này xảy ra sẽ ảnh hưởng lớn đến tiến độ giai đoạn 1 của dự án.
HỒNG NGUYỄN
24, Tháng 10, 2019 | 16:32

Nhàđầutư
Tính đến tháng 8/2019 việc giải ngân mới chỉ đạt 1,07% (khoảng 123 tỷ đồng) mức vốn được giao (dự kiến đến hết năm 2019 chỉ đạt 15,75%), do vậy, nhiều ý kiến cho rằng tiến độ thu hồi đất khó bảo đảm. Nếu điều này xảy ra sẽ ảnh hưởng lớn đến tiến độ giai đoạn 1 của dự án.

ky hop thu 8

Toàn cảnh Kỳ họp thứ 8 Quốc hội Khóa XIV

Chiều 24/10, tại Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo thẩm tra báo cáo nghiên cứu khả thi về dự án Cảng Hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1.

Ủy ban Kinh tế cho rằng, theo quy định tại khoản 2 Điều 8 của Nghị quyết số 49/2010/QH12 về dự án, công trình quan trọng quốc gia thì trường hợp dự án, công trình có tổng vốn đầu tư rất lớn, thời gian thực hiện kéo dài trong nhiều năm thì Quốc hội có thể xem xét, quyết định chủ trương đầu tư chung, sau đó trên cơ sở dự án đầu tư (báo cáo nghiên cứu khả thi), Quốc hội sẽ quyết định chủ trương đầu tư cụ thể.

Nghị quyết số 94/2015/QH13 ngày 25/6/2015 của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án Cảng HKQT Long Thành đã quy định: “Chính phủ chỉ đạo lập báo cáo nghiên cứu khả thi đối với từng giai đoạn của Dự án và báo cáo Quốc hội thông qua trước khi quyết định đầu tư”. Vì vậy, việc Chính phủ trình Quốc hội Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án đầu tư xây dựng Cảng HKQT Long Thành giai đoạn 1 trước khi quyết định đầu tư là phù hợp.

Tuy nhiên, để Quốc hội có cơ sở thông qua thì Hội đồng thẩm định (HĐTĐ) phải có báo cáo đầy đủ các nội dung và chỉ tiêu cụ thể nhưng cho đến nay HĐTĐ chưa có báo cáo đầy đủ, chưa làm rõ một số nội dung theo Nghị quyết 94 như tổng mức đầu tư, hiệu quả kinh tế - xã hội và tài chính của Dự án, công nghệ chính, quản lý vận hành, khai thác và đào tạo nguồn nhân lực, cơ chế chính sách đặc thù, do đó, không có đủ cơ sở và căn cứ để Quốc hội xem xét quyết định.

Luật Đầu tư công cũng không quy định Quốc hội phải thông qua Báo cáo NCKT và Nghị quyết 94 không quy định nội dung cụ thể của Báo cáo NCKT Quốc hội phải thông qua, do đó, đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế đề nghị Quốc hội chỉ xem xét quyết định các đề xuất trong Tờ trình của Chính phủ và những nội dung quan trọng của Dự án.

vu hong thanh

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo thẩm tra Báo cáo nghiên cứu khả thi về dự án Cảng Hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1

Nếu không tính toán kỹ có thể dẫn đến không phát huy tối đa hiệu quả

Sau khi HĐTĐ có báo cáo, Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét quyết định đầu tư Dự án giai đoạn 1 theo quy định của pháp luật.

Về quy mô đầu tư giai đoạn 1 của Dự án, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết, dự án gồm 3 giai đoạn đầu tư với mục tiêu khi hoàn thành sẽ đạt công suất 100 triệu hành khách/năm và 5 triệu tấn hàng hóa/năm.

Giai đoạn 1 đầu tư xây dựng 1 đường cất hạ cánh và 1 nhà ga hành khách cùng các hạng mục phụ trợ đồng bộ với công suất 25 triệu hành khách/năm, 1,2 triệu tấn hàng hóa/năm với tiến độ chậm nhất đưa vào khai thác trong năm 2025.

"Có ý kiến cho rằng, cùng lúc vừa xây dựng Cảng HKQT Long Thành vừa nâng cấp, cải tạo sân bay Tân Sơn Nhất sẽ làm phân tán nguồn lực và chia sẻ lượng hành khách; nếu không tính toán kỹ có thể dẫn đến không phát huy tối đa hiệu quả của 2 cảng hàng không", ông Vũ Hồng Thanh nói.

Cũng theo ông Thanh, Ủy ban Kinh tế tán thành quy mô giai đoạn 1 của Dự án đã được nghiên cứu theo Nghị quyết 94, tuy nhiên đề nghị Chính phủ cần sớm nghiên cứu và đầu tư giai đoạn 2, giai đoạn 3 của Dự án để vừa bảo đảm tính cạnh tranh với các cảng hàng không trong khu vực, vừa có thêm đường cất hạ cánh dự phòng cho đường cất hạ cánh thứ nhất để quá trình khai thác được liên tục, hiệu quả.

Về kiến nghị điều chỉnh nhu cầu sử dụng đất, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết: Chính phủ đề nghị bổ sung thu hồi 136 ha đất để thực hiện 2 tuyến giao thông kết nối với Cảng HKQT Long Thành.

Có ý kiến đề nghị làm rõ việc đền bù, giải phóng mặt bằng đối với phần diện tích 136 ha gồm: loại đất cần thu hồi, tác động của việc thu hồi đất đối với người dân, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Hiện nay, công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Dự án đã được tách riêng thành một dự án độc lập và giao UBND tỉnh Đồng Nai thực hiện. Do vậy, đề nghị Chính phủ làm rõ việc thu hồi diện tích đất này theo hướng sẽ được bổ sung, sửa đổi vào Nghị quyết số 53 của Quốc hội hay đưa vào Nghị quyết về báo cáo NCKT giai đoạn 1; kinh phí phát sinh tính vào Dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo Nghị quyết 53 hay tính vào Dự án Cảng HKQT Long Thành giai đoạn 1.

Ủy ban Kinh tế nhận thấy, nếu bổ sung diện tích đất thu hồi vào Nghị quyết 53 thì trình tự, thủ tục phức tạp, ảnh hưởng đến tiến độ của Dự án, do đó, đề nghị đưa diện tích đất thu hồi vào giai đoạn 1 của Dự án Cảng HKQT Long Thành để thi công nhanh 02 tuyến giao thông kết nối, trước mắt là đường công vụ phục vụ cho việc thi công các hạng mục của sân bay; kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư lấy từ vốn đầu tư giai đoạn 1 của Dự án. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo khung chính sách được Chính phủ phê duyệt khi thực hiện Nghị quyết 53 của Quốc hội.

Về điều chỉnh đất sử dụng cho quốc phòng: Theo Nghị quyết 94 của Quốc hội, diện tích đất cho quốc phòng là 1.050 ha. Chính phủ kiến nghị điều chỉnh, trong số 1.050 ha đất này, có 570 ha dùng riêng cho quốc phòng và 480 ha dùng chung giữa quân sự và dân sự (đường cất hạ cánh số 4 và đường lăn).

Ủy ban Kinh tế tán thành với việc sử dụng diện tích đất dùng chung (480ha). Việc dùng chung diện tích đất này vừa bảo đảm sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, vừa bảo đảm thực hiện kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng. Việc quản lý, sử dụng diện tích đất dùng chung thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về hàng không dân dụng Việt Nam.

Về giao thông kết nối theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, báo cáo NCKT kiến nghị bổ sung 2 tuyến đường bộ kết nối vào dự án đầu tư xây dựng. Nội dung này có 2  ý kiến:

Ý kiến thứ nhất, tán thành với kiến nghị của Chính phủ bổ sung 2 tuyến giao thông kết nối, do 2 tuyến này là tuyến đường kết nối quan trọng giữa Cảng hàng không với các tuyến huyết mạch quốc gia, cần phải được thực hiện đồng bộ. Ngoài ra, tuyến số 1 còn là đường công vụ chính phục vụ thi công giai đoạn 1 của Dự án.

Ý kiến thứ hai cho rằng, do 2 tuyến đường bộ Chính phủ kiến nghị nằm ngoài ranh giới Dự án Cảng HKQT Long Thành, nhất là tuyến số 2 không kết nối trực tiếp với Cảng HKQT Long Thành, vì vậy đề nghị Chính phủ lập dự án đầu tư độc lập đối với các tuyến đường bộ này theo quy định của Luật Đầu tư công để thực hiện.

Ủy ban Kinh tế tán thành với loại ý kiến thứ nhất và cho rằng 2 tuyến đường này tuy không thuộc ranh giới Dự án Cảng HKQT Long Thành, nhưng do đây là các tuyến đường kết nối quan trọng, trực tiếp phục vụ cho hoạt động của Cảng hàng không cả trong quá trình xây dựng, cũng như bảo đảm sự đồng bộ của cơ sở hạ tầng, phục vụ quá trình hoạt động sau này.

Việc bổ sung 2 tuyến giao thông kết nối này vào giai đoạn 1 của Dự án và để nhà đầu tư thực hiện bằng vốn doanh nghiệp cũng sẽ bảo đảm đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh tiến độ do không phải chờ phân bổ vốn theo thủ tục đầu tư công.

Bên cạnh đó, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ cần hết sức lưu ý, hiện Quốc lộ 51 và đường cao tốc TP.HCM - Long Thành - Dầu Giây đã quá tải, thường xuyên ùn tắc, khó bảo đảm giao thông cho Cảng HKQT Long Thành. Mặt khác, kết nối Cảng HKQT Long Thành với tuyến đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị TP. Hồ Chí Minh dự kiến đến năm 2040 mới được đầu tư. Như vậy, kết nối giao thông cho Cảng HKQT Long Thành giai đoạn 1 khó có thể được bảo đảm.

long-thanh

Tổng mức đầu tư Dự án Cảng HKQT Long Thành giai đoạn 1 là 4,779 tỷ USD, tương đương 111.689  tỷ đồng (chưa bao gồm hạng mục 4b là hạng mục xã hội hóa). Ủy ban Kinh tế cho rằng, nhiều hạng mục tính toán mới dừng ở mức thiết kế sơ bộ có thể dẫn đến tăng tổng mức đầu tư khi chuẩn xác hóa.

Đề nghị rà soát để tránh gây biến động lớn tổng mức đầu tư Dự án

Về tổng mức đầu tư, hình thức đầu tư và phương án huy động vốn, ông Vũ Hồng Thanh cho biết, tổng mức đầu tư Dự án giai đoạn 1 là 4,779 tỷ USD, tương đương 111.689  tỷ đồng (chưa bao gồm hạng mục 4b là hạng mục xã hội hóa). Ủy ban Kinh tế cho rằng, nhiều hạng mục tính toán mới dừng ở mức thiết kế sơ bộ có thể dẫn đến tăng tổng mức đầu tư khi chuẩn xác hóa.

Do đó, đề nghị rà soát để tránh gây biến động lớn tổng mức đầu tư Dự án. HĐTĐ cũng đề xuất, do Dự án có tổng mức đầu tư rất lớn, quy mô phức tạp, HĐTĐ sẽ có ý kiến thẩm định cụ thể sau khi có kết quả thẩm tra cuối cùng của Tư vấn thẩm tra trong bước trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định đầu tư Dự án. Như vậy, tính chính xác của tổng mức đầu tư dự án chưa thể được bảo đảm.

Theo ông Vũ Hồng Thanh về hình thức đầu tư hiện tại giai đoạn 1 được phân thành 4 nhóm hạng mục đầu tư. Theo đề nghị của Chính phủ, hạng mục 1 giao Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) trực tiếp đầu tư và cho các cơ quan quản lý nhà nước thuê lại; hạng mục 2 giao cho Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam (VATM) trực tiếp đầu tư bằng vốn của doanh nghiệp; hạng mục 3 giao cho ACV trực tiếp đầu tư bằng vốn của doanh nghiệp; hạng mục 4 giao ACV hợp tác đầu tư, nhượng quyền đầu tư, khai thác hoặc xã hội hóa đầu tư.

Ủy ban Kinh tế nhận thấy, Dự án Cảng HKQT Long Thành là công trình quan trọng quốc gia, có liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia nên việc lựa chọn nhà đầu tư cần phải hết sức thận trọng, chặt chẽ, bảo đảm cơ sở pháp lý. Theo quy định của pháp luật hiện hành về đấu thầu thì việc lựa chọn nhà đầu tư Dự án thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.

Có ý kiến đề nghị, để bảo đảm vấn đề quốc phòng, an ninh quốc gia và hiệu quả đầu tư, Quốc hội có thể đồng ý giao Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định giao cho các doanh nghiệp nhà nước, có đủ điều kiện để huy động vốn không cần có sự bảo lãnh của Chính phủ, không gây nợ xấu, có năng lực quản lý vận hành cảng hàng không là nhà đầu tư để trực tiếp đầu tư, quản lý, khai thác đồng bộ Cảng HKQT Long Thành.

Về phương án huy động vốn, Nghị quyết 94 của Quốc hội cho phép Dự án được sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau, tuy nhiên, báo cáo NCKT chưa có đánh giá tác động cụ thể của từng loại nguồn vốn mà mới tập trung vào phương án sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước (VATM) và doanh nghiệp do Nhà nước chi phối (ACV) thực hiện. Trong tổng số 4,194 tỷ USD vốn của ACV đầu tư vào dự án, dự kiến ACV phải đi vay khoảng 2,628 tỷ USD.

Ủy ban Kinh tế nhận thấy, theo quy định tại Điều 41 của Luật Quản lý nợ công thì Dự án đầu tư xây dựng Cảng HKQT Long Thành thuộc đối tượng được bảo lãnh Chính phủ; nếu được Chính phủ bảo lãnh thì khoản vay này sẽ được tính vào nợ công. Do đó, đề nghị Chính phủ báo cáo thêm về khả năng cấp bảo lãnh đối với khoản vay này để có cơ sở đánh giá đầy đủ, chính xác tác động của phương án huy động vốn đối với nợ công.

Mặt khác, ACV là doanh nghiệp do nhà nước chi phối, nên dù huy động vốn dưới hình thức nào thì Nhà nước vẫn có trách nhiệm trong việc xử lý khi có rủi ro đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, do đó, kể cả việc Chính phủ không cấp bảo lãnh đối với khoản vay này thì cũng cần có sự giám sát chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động vay, sử dụng vốn vay của ACV.

Ngoài ra, cũng cần cân nhắc về khả năng huy động vốn của ACV vì phải đồng thời thực hiện đầu tư mở rộng Cảng hàng không Tân Sơn Nhất cũng như các cảng hàng không khác trên cả nước. Đối với nguồn vốn của VATM cũng cần làm rõ hơn năng lực tài chính để thực hiện.

Liên quan đến hiệu quả kinh tế, hiệu quả tài chính, Ủy ban Kinh tế nhận thấy, nếu xét các thông số của Báo cáo thì Dự án có hiệu quả kinh tế và hiệu quả tài chính. Tuy nhiên, cần lưu ý doanh thu, lợi nhuận còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố như sản lượng hành khách của Cảng HKQT Long Thành, sản lượng ngành hàng không và mức tăng trưởng GDP, trong khi những thông số này biến động phụ thuộc nhiều biến số, kể cả biến động kinh tế quốc tế, khả năng cạnh tranh với các cảng hàng không trong khu vực và trên thế giới.

Hơn nữa, tỷ suất nội hoàn kinh tế được tính trên cở sở tổng mức đầu tư do ACV lập và với điều kiện không tăng vốn trong quá trình đầu tư xây dựng. Nếu nhà đầu tư không phải là ACV hoặc trong quá trình đầu tư xây dựng làm tăng tổng mức đầu tư thì tỷ suất nội hoàn có thể thay đổi.

Chính phủ cần có các giải pháp, chỉ đạo quyết liệt để Dự án hoàn thành đúng tiến độ

Về thời gian, tiến độ thực hiện dự án, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho hay, theo báo cáo NCKT, Dự án có thể đạt tiến độ như Nghị quyết của Quốc hội giao là hoàn thành giai đoạn 1 vào năm 2025, tuy nhiên, nhiều ý kiến băn khoăn về tiến độ hoàn thành vì sau khi báo cáo NCKT được phê duyệt, tiếp tục phải lập, phê duyệt thiết kế kỹ thuật dự án, sau đó mới khởi công, thời gian cần thiết để hoàn thành còn khá dài.

Ngoài ra, qua tham khảo việc xây dựng các cảng hàng không đã thực hiện thì tiến độ này là rất khó khả thi. Mặt khác, công tác đền bù giải phóng mặt bằng theo Nghị quyết 53 của Quốc hội đang được UBND tỉnh Đồng Nai thực hiện.

Tính đến tháng 8/2019 việc giải ngân mới chỉ đạt 1,07% (khoảng 123 tỷ đồng) mức vốn được giao (dự kiến đến hết năm 2019 chỉ đạt 15,75%), do vậy, nhiều ý kiến cho rằng tiến độ thu hồi đất khó bảo đảm. Nếu điều này xảy ra sẽ ảnh hưởng lớn đến tiến độ giai đoạn 1 của Dự án.

"Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ có các giải pháp, chỉ đạo quyết liệt để Dự án hoàn thành đúng tiến độ khi đã được Quốc hội thông qua", ông Vũ Hồng Thanh nhấn mạnh.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ