Các ngân hàng ‘bé hạt tiêu’ hụt hơi trong kinh doanh nửa đầu của năm?

Nhàđầutư
Trong khi các ngân hàng lớn vẫn tiếp tục báo lãi thì nhóm ngân hàng nhỏ với vốn điều lệ quanh mức 3.000 tỷ đồng nửa đầu năm lại ghi nhận những diễn biến không mấy khả quan.
KHÁNH AN
07, Tháng 08, 2019 | 08:52

Nhàđầutư
Trong khi các ngân hàng lớn vẫn tiếp tục báo lãi thì nhóm ngân hàng nhỏ với vốn điều lệ quanh mức 3.000 tỷ đồng nửa đầu năm lại ghi nhận những diễn biến không mấy khả quan.

Mùa công bố kết quả kinh doanh bán niên 2019 đã đi qua được nửa chặng đường, đến thời điểm này đã có nhiều ngân hàng công bố báo cáo tài chính chính thức.

Trong số này, hầu hết các ngân hàng lớn vẫn tiếp tục báo lãi ngày càng cao, thậm chí nhiều ngân hàng ghi nhận kết quả kinh doanh (KQKD) kỷ lục trong 6 tháng đầu năm nay, điển hình như Vietcombank, Techcombank, MB, ACB...

Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, nhóm các ngân hàng nhỏ với vốn điều lệ quanh mức 3.000 tỷ đồng lại cho thấy bức tranh không mấy tươi sáng về KQKD 6 tháng đầu năm 2019.

ncv

Ngân hàng TMCP Quốc Dân (NCB)

Đến thời điểm này mới chỉ có NCB, VietBank công bố kết quả lợi nhuận tốt, trong khi Kienlongbank đạt tương đương cùng kỳ còn Saigonbank, PGBank và VietABank đều chứng kiến sự sụt giảm.

Ghi nhận sự tăng trưởng khá ‘sáng sủa’ về lợi nhuận đầu tiên phải kể đến Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương tín (VietBank), kết thúc quý II/2019, hoạt động tín dụng đem về cho VietBank 304,4 tỷ đồng lãi thuần, tăng trưởng 9% so với cùng kỳ năm ngoái. Lũy kế 6 tháng đầu năm, VietBank lãi 249,6 tỷ đồng, tăng trưởng 24,2%. Như vậy, ngân hàng đã hoàn thành 50,7% kế hoạch năm.

Bên cạnh VietBank thì Ngân hàng TMCP Quốc Dân (NCB) cũng ghi nhận KQKD tương đối tích cực, tính trong 6 tháng đầu năm 2018, lợi nhuận trước thuế của NCB đạt 20,5 tỷ đồng, tăng gấp 1,3 lần so với cùng kỳ năm ngoái.

Tuy vậy, với con số đạt được này thì NCB mới hoàn thành được 29% chỉ tiêu lợi nhuận đề ra trong năm. Ngoài ra, tính đến cuối tháng 6, tổng tài sản của ngân hàng đạt 70.695 tỷ đồng, giảm 2,3% so với đầu năm, trong đó cho vay khách hàng đạt 35.845 tỷ đồng, tăng nhẹ 1,6% so với đầu năm.

Ở nhóm ngân hàng nhỏ có KQKD đi ngang, Kienlongbank ghi nhận lợi nhuận trước thuế quý II giảm nhẹ 4,5% so với cùng kỳ. Mặc dù thu nhập từ hoạt động của ngân hàng này có cải thiện song chi phí hoạt động tăng mạnh đã dẫn đến hai quý đầu năm 2019, lợi nhuận của Kienlongbank ở mức hơn 148 tỷ đồng, chỉ tương đương cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ nợ xấu chiếm 1,15% trên tổng dư nợ cho vay khách hàng, với số tuyệt đối là 357 tỷ đồng.

Ở chiều hướng ngược lại, 3 ngân hàng Saigonbank, PGBank và VietABank tiếp tục trải qua 6 tháng đầu năm 2019 đầy khó khăn.

Các hoạt động khác như kinh doanh ngoại hối, mua bán chứng khoán kinh doanh, mua bán chứng khoán đầu tư không có nhiều chuyển biến, song các khoản chi phí lại ghi nhận sự tăng lên đột biến đã khiến cho lợi nhuận trước thuế của VietABank chỉ đạt 89,3 tỷ đồng, giảm 11,9% so với cùng kỳ năm trước, do đó VietABank chỉ mới hoàn thành 37,1% chỉ tiêu lợi nhuận đề ra trong năm.

Cùng với đó, PGBank cũng ghi nhận sự kém khởi sắc khi lợi nhuận trước thuế trong quý II chỉ đạt 8 tỷ đồng, giảm hơn một nửa so với quý II/2018 và lũy kế 6 tháng đầu năm 2019 đạt 94 tỷ đồng, giảm 5% so với cùng kỳ. Đáng chú ý, nợ xấu tại nhà băng này có xu hướng tăng lên. Cuối quý II/2019, nợ xấu của PGBank là 683 tỷ đồng, tăng 29 tỷ so với đầu năm, tính ra tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay tăng từ 2,96% lên 3,06%.

Do đang trong giai đoạn tập trung tái cơ cấu và xử lý nợ xấu nên hoạt động kinh doanh thời gian qua của Saigonbank cũng ghi nhận kết quả giảm đáng kể với lãi trước thuế chỉ đạt 88,4 tỷ đồng, giảm 20,7% so với cùng kỳ năm trước.

Như vậy, bức tranh chung của những ngân hàng nhỏ đã công bố KQKD 6 tháng đầu năm 2019 là sụt giảm nhiều hơn khởi sắc. Ngay cả trong nhóm các ngân hàng có KQKD tăng trưởng so với cùng kỳ thì đóng góp phần lớn cũng là sự sụt giảm của chi phí dự phòng chứ không phải tăng trưởng về thu nhập lãi thuần.

Do đó, lãnh đạo và cộng sự các ngân hàng 'bé hạt tiêu' cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa vào 2 quý còn lại để có thể hoàn thành được chỉ tiêu đề ra trong năm 2019.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ