VN-Index: Triển vọng tích cực cho đến mùa hè, sau đó thì sao?

Nhàđầutư
Trong bản báo cáo Chiến lược mới đây, Công ty CP Chứng khoán TP.HCM (HSC) đã có những nhận định triển vọng tích cực, cũng như các cảnh báo rủi ro với TTCK Việt Nam.
BẢO NGỌC
02, Tháng 03, 2018 | 11:21

Nhàđầutư
Trong bản báo cáo Chiến lược mới đây, Công ty CP Chứng khoán TP.HCM (HSC) đã có những nhận định triển vọng tích cực, cũng như các cảnh báo rủi ro với TTCK Việt Nam.

nhadautu - TTCK Vietnam tang manh

 VN-Index: Triển vọng tích cực cho đến mùa hè, nhưng sau đó thì…

HSC đánh giá, VN-Index sẽ đạt đỉnh 1200 điểm, cao hơn khoảng 20 điểm so với mức kỷ lục 1179,32, và cũng tăng 21,9% từ mức 984,24 vào thời điểm đóng cửa cuối năm 2017, kịch bản khả dĩ nhất là VN-Index tăng mạnh lên 1.320 – 1.360 điểm trong năm 2018. 

Quan điểm này được đưa ra trên các yếu tố hỗ trợ như: Năm 2018 sẽ là năm thứ hai liên tiếp khối ngoại tích cực mua vào, làn sóng IPO và niêm yết của hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước, tăng trưởng lợi nhuận mạnh với HSC dự báo EPS của TOP 70 mã vốn hóa lớn nhất thị trường sẽ tăng 18,2%.

Tuy đánh giá triển vọng là thế, nhưng HSC cũng đánh giá VN-Index sẽ tích cực trong ngắn hạn, hoặc thận trọng hơn chút là trong trung hạn 6-12 tháng. Công ty Chứng khoán này đánh giá, định giá các cổ phiếu có vẻ đã đắt khi vào cuối năm 2017, dựa trên dự báo lợi nhuận TOP 70, P/e dự phóng 2018 là 18,86 lần vào ngày 3/1/2018, tương đương cao hơn 33% so với mức P/e dự phóng khoảng 14,2 lần vào thời điểm năm ngoái. 

HSC vẫn khẳng định TTCK Việt Nam không phải là thị trường duy nhất như vậy. Tất cả các thị trường chứng khoán thế giới bao gồm cả thị trường mới nổi và sơ khai đều có vẻ đắt đỏ. Cụ thể, các thị trường mới nổi và sơ khai đều chịu ảnh hưởng của dòng vốn đổ vào từ các NĐT nước ngoài trong cả năm 2017. Và nếu dòng tiền này vẫn tiếp tục, mọi diễn biến sẽ lặp lại tương tự. Nhưng nếu dừng lại, thì đây là yếu tố tác động tiêu cực đến diễn biến thị trường và tâm lý nhà đầu tư.

Thị trường còn có thể biến động mạnh hơn do định giá cổ phiếu đắt và thực tế là năm 2018 là năm chuyển đổi toàn cầu xét về chính sách tiền tệ. Ngoài ra, chương trình cổ phần hóa sẽ không còn sôi động như năm 2017 khi đến thời điểm hiện tại không có bất kỳ thương vụ đấu giá cổ phần nhà nước nào có quy mô lớn tương tự của Sabeco trong kế hoạch thoái vốn năm 2018, do đó mức độ mua ròng của khối ngoại cũng được dự báo là không lớn như năm 2017.  

Mức độ margin tăng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp thị trường tăng trong năm ngoái. Tính toán của HSC cho thấy, GTGD bình quân ngày tăng 74,5% trong năm 2017 và đạt 4.189,5 tỷ đồng. Trong khi đó mức cho vay margin ước tính tăng 67,9% trong năm 2017 (năm 2016 chỉ tăng 6,9%).

So sánh trong 2 năm 2016 và 2017 cho thấy, trong năm 2016, VN-Index tăng 18,6% và dư nợ cho vay margin tăng 6,9%. Khối ngoại bán ròng 354,1 triệu USD. Trong năm 2017, Vnindex tăng 48,03% với dư nợ cho vay margin tăng 67,9%. Khối ngoại mua ròng 1.150,80 triệu USD.

Điều này cho thấy tại mặt bằng giá hiện tại, thị trường đã có phần “nóng”. Tuy nhiên, HSC cho rằng thị trường sẽ vẫn tăng tiếp. Công ty này đánh giá, tỷ lệ margin so với vốn hóa thị trường chưa phải ở mức đáng báo động.

TTCK Việt Nam đã có tháng đầu tiên của năm 2018 'thăng hoa' với 15/20 phiên giao dịch tăng điểm. Trong 5 phiên giao dịch giảm điểm, TT chỉ ghi nhận duy nhất 1 phiên giao dịch giảm điểm rất mạnh vào ngày 17/1 khi VN-Index giảm đến 28,27 điểm. Tính tổng thể cả tháng 1/2018, VN-Index đã tăng đến hơn 11,5%.

Tính trong 2 tháng đầu năm 2018, TTCK Việt Nam lọt top các thị trường tăng mạnh nhất trên thế giới với mức tăng gần 14%. 

Lực mua mạnh từ khối ngoại (12.000 tỷ đồng) và lực mua vững chắc của khối nội là các yếu tố hỗ trợ tốt cho thị trường. Tuy vậy, HSC đánh giá 2 lực mua trên sẽ không còn mạnh khi bước vào quý I/2018, thậm chí xu hướng mua vào còn bị đảo ngược phần nào sau đó trong năm.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ