VN-Index tăng nhẹ bất chấp bộ đôi VIC và VHM giảm sâu

Nhàđầutư
Dù rung lắc khá mạnh trong phiên đáo hạn phái sinh và chịu áp lực giảm điểm mạnh từ bộ đôi VIC và VHM, song chỉ số VN-Index vẫn chốt phiên 16/9 trong sắc xanh.
NHẬT HUỲNH
16, Tháng 09, 2021 | 16:33

Nhàđầutư
Dù rung lắc khá mạnh trong phiên đáo hạn phái sinh và chịu áp lực giảm điểm mạnh từ bộ đôi VIC và VHM, song chỉ số VN-Index vẫn chốt phiên 16/9 trong sắc xanh.

chung-khoan-anh-hoang-trieu3-16236338429331025186886-1605

Ảnh Internet

Phiên giao dịch 16/9 là ngày đáo hạn phái sinh tháng 9, nên tâm lý nhà đầu tư tỏ ra thận trọng hơn, thị trường theo đó cũng chứng kiến nhiều bất ngờ.

Cụ thể, lực mua kỹ thuật ngay trong phiên ATO đã giúp VN-Index mau chóng tăng hơn 6 điểm, dù vậy, sau khi chạm mốc 1.350 điểm, áp lực bán lại gia tăng khiến VN-Index giao dịch giằng co và nhanh chóng đổ dốc về cuối phiên sáng. Trong đó bộ đôi VHM, VIC trong sáng nay giảm khá mạnh, lần lượt -2% và -3,3% đã ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường chung. Đà giảm tiếp tục được nới rộng trong phiên chiều, có thời điểm VN-Index về sát mốc 1.340. Tuy vậy, cầu bắt đáy dâng cao đã giúp thị trường hồi phục trong những phút cuối phiên.

Chốt phiên 16 /9, VN-Index tăng nhẹ 0,04 điểm lên 1.345,87 điểm. Thanh khoản đạt gần 600 triệu đơn vị, tương đương tổng GTGD 18.203 tỷ đồng. Sắc xanh trội hơn với 212 mã tăng và 187 mã giảm điểm. Trong đó, các mã như VIC, VHM, SAB, HVN giảm sâu và gây áp lực lên VN-Index, còn MSN, VCB, VRE... tăng tốt và góp phần nâng đỡ thị trường chung. Riêng cổ phiếu MSN tăng 3,38%, đóng góp 1,51 điểm cho chỉ số còn VIC giảm 3,94% làm chỉ số mất 3,57 điểm.

Đáng chú ý, dòng tiền phiên hôm nay có dấu hiệu rút dần khỏi nhóm cổ phiếu vốn hóa vừa và nhỏ khi chỉ số VNSmallcap giảm 3,98 điểm, còn VNMidcap tăng nhẹ 2,73 điểm. Trong khi đó VN30 tăng 4,13 điểm lên 1.448,98 điểm, GTGD là hơn 8.047 tỷ đồng, tăng 8,2% so với phiên hôm qua và bằng 44% so với thanh khoản HOSE. HNX-Index cũng tăng 2,5 điểm lên 353,24 điểm và UPCOM tăng 0,44 điểm lên 96,25 điểm.

Còn xét về nhóm ngành thì nhóm ngân hàng sau những phiên điều chỉnh gần đây đã hồi phục khá tốt và đóng vai trò trụ đỡ trong phiên hôm nay. Ngoại trừ EIB, KLB, NVB kết phiên dưới mốc tham chiếu và LPB, NAB, SSB giữ nguyên giá thì tất cả các mã còn lại đều tăng điểm.

Các cổ phiếu thuộc nhóm than tiếp tục bứt phá, trong đó THT, TVD, TC6 vẫn được kéo lên mức giá trần, các mã khác cùng nhóm tăng mạnh là TDN (+9,34%), NBC tăng đến 9,4%, TMB (+8,33%), HLC (+8,47%), MDC (+9,09%),…

Dòng tiền cũng hướng tới các cổ phiếu vật liệu xây dựng với kỳ vọng được hưởng lợi từ quá trình đầu tư công. Trong đó một số mã thép tăng điểm là HSG (+0,53%), TLH (+2,49%), TVN (+6,21%), VIS (+3,93%), và một số cổ phiếu nhóm xi măng tăng tốt như BTS (+10%), HVX (+6,9%), HOM (+7,32%), BCC (+1,02%), HT1 (+0,65%),...

Ở chiều ngược lại, nhóm bất động sản lại có một phiên giao dịch khá giằng co và kết phiên với các mã tăng giảm đan xen, trong đó ảnh hưởng tiêu cực nhất đến chỉ số là các mã VIC (-3,94%), VHM (-2,2%), VRG (-0,86%), ITA (-2,2%), FLC (-1,38%), CRE (-4,18%),…

Tương tự, nhóm cổ phiếu công ty chứng khoán cũng phân hóa mạnh khi VND (-1,5%), SSI (-0,93%), SHS (-1,28%), MBS (-1,33%), HCM (-1,69%), AGR (-0,3%),… còn CSI (+11,9%), ORS (+1,17%), HBS (+2,88%), VCI (+0,48%), VIX (+0,27%),…

Ngoài ra, nhóm cổ phiếu tăng nóng trong thời gian gần đây là Louis đã có sự phân hóa với BII, AGM, APG giảm sàn, DDV giảm 12%, trong khi TGG, SMT, AGM vẫn tăng kịch trần.

Về giao dịch của NĐTNN, khối ngoại đẩy mạnh bán ròng với giá trị lên đến 1.306 tỷ đồng trên HOSE, trong đó tập trung vào các mã VIC (-1.140 tỷ đồng), DGW (-82,8 tỷ đồng), DGC (-43 tỷ đồng),…Ở chiều ngược lại, NĐTNN mua ròng VRE (+78,6 tỷ đồng), MSN (+47,5 tỷ đồng), MBB (+35,2 tỷ đồng)...

Trên TTCK phái sinh, chỉ có 1 HĐTL giảm điểm là VN30F2110 giảm 0,8 điểm.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ