Top 100 người giàu nhất năm 2020 có đến 40 đại diện là 'sếp' ngân hàng và người nhà

Riêng top 20 người giàu nhất có 9 người trong lĩnh vực ngân hàng, Techcombank giữ 5 đại diện.
NGỌC TOÀN
04, Tháng 01, 2021 | 06:24

Riêng top 20 người giàu nhất có 9 người trong lĩnh vực ngân hàng, Techcombank giữ 5 đại diện.

photo1609668969877-1609668970018862792052

 

Thị trường chứng khoán vừa trải qua năm 2020 đầy cảm xúc. Đầu năm, các cổ phiếu sụt giảm sâu do tâm lý lo ngại bởi dịch Covid-19, nhưng từ tháng 4, những nỗ lực kiểm soát dịch bệnh của Chính phủ và thị trường chứng khoán toàn cầu hồi phục nhanh, đặc biệt là quý cuối năm, đã giúp thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2020 thăng hoa ngoài dự đoán.

Kết thúc năm 2020, chỉ số VN-Index tăng gần 143 điểm, tương đương xấp xỉ 15% lên 1.103,87 điểm. Trên sàn Hà Nội, chỉ số HNX-Index tăng hơn 100 điểm tức gần gấp đôi (98%) lên đạt 203,12 điểm.

Nhờ thị trường tăng mạnh mà khối tài sản của các nhà đầu tư cũng tăng ngoạn mục, có người tăng gấp nhiều lần so với năm 2019. Câu lạc bộ các nhà đầu tư sở hữu nghìn tỷ cũng đã tăng lên con số 90 thay vì 60 của năm trước.

Riêng trong lĩnh vực ngân hàng, nhiều ông chủ, lãnh đạo các nhà băng và người nhà nắm giữ lượng lớn cổ phiếu của ngân hàng nơi họ công tác hoặc ở các doanh nghiệp có liên quan, nên cũng đóng góp rất nhiều trong danh sách 100 người giàu nhất.

Trong top 20 người có tài sản nhiều nhất năm qua có đến 9 đại diện đến từ lĩnh vực tài chính ngân hàng.

Nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo là người giàu thứ 3 trên sàn chứng khoán, và là người phụ nữ giàu nhất với khối tài sản 26.700 tỷ đồng. Bà Thảo là Phó chủ tịch kiêm Tổng giám đốc hãng hàng không Vietjet, đồng thời là phó chủ tịch thường trực HĐQT ngân hàng HDBank. Cá nhân bà sở hữu cổ phiếu ở cả hai doanh nghiệp này.

Đứng ngay sau bà Thảo ở vị trí thứ 4 là ông Hồ Hùng Anh, chủ tịch HĐQT Techcombank. Năm 2020 ông Hùng Anh sở hữu khối tài sản 23.200 tỷ đồng, tăng thêm 8.300 tỷ tương đương 56% so với năm 2019 nhờ cổ phiếu MSB và TCB đều tăng mạnh.

Vợ ông Hùng Anh (bà Nguyễn Thị Thanh Thuỷ) và mẹ (Nguyễn Thị Thanh Tâm) cũng đều có tên trong top những người giàu nhất, với vị trí lần lượt thứ 14 và 15, trong đó vợ ông Hùng Anh có tài sản 6.000 tỷ đồng còn bà Tâm có tài sản 5.500 tỷ đồng. Trong năm vừa qua cả, tổng cộng vợ và mẹ ông Hùng Anh đã tăng thêm khối tài sản được 3.000 tỷ đồng nhờ nắm giữ cổ phiếu MSB và TCB.

Ngoài ra, con trai vợ chồng ông Hồ Hùng Anh là Hồ Anh Minh cũng có tên trong top những người giàu nhất năm qua với tài sản 4.300 tỷ đồng, tăng 1.100 tỷ so với năm 2019.

Vẫn liên quan tới cổ phiếu Techcombank, ông Nguyễn Đăng Quang – người gắn liền với ông Hồ Hùng Anh trên thị trường khi cùng kinh doanh ở Đông Âu, về Việt Nam là Masan và Techcombank, đồng thời sở hữu cổ phiếu của 2 doanh nghiệp này – là người giàu thứ 5 trên sàn chứng khoán với khối tài sản 22.700 tỷ đồng, cũng tăng mạnh đến 8.200 tỷ so với năm trước.

Ngoài Techcombank, "sếp" VPBank và người nhà của họ cũng thu hút sự chú ý của thị trường khi liên tục nằm trong top những người giàu nhất.

Trong đó chủ tịch VPBank có tài sản 4.000 tỷ đồng, tăng thêm 1.500 tỷ trong năm qua và đang là người giàu thứ 18 trên thị trường. Mẹ ông Dũng là bà Vũ Thị Quyên cùng với vợ ông là Hoàng Anh Minh đều sở hữu khối tài sản trị giá 3.900 tỷ đồng, chia nhau vị trí giàu thứ 19 và 20 trên sàn. Trong năm qua, mỗi người đã tăng thêm tài sản được 63% giá trị so với năm 2019.

Trong top 100 người giàu nhất sàn chứng khoán năm qua, với tài sản từ 850 tỷ đồng trở lên, có đến 40 đại diện nắm giữ cổ phiếu ngân hàng. Ngoài nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo ở HDBank, các ông chủ như Hồ Hùng Anh của Techcombank, Ngô Chí Dũng ở VPBank, Đặng Khắc Vỹ của VIB, Dương Công Minh của Sacombank, Trần Hùng Huy của ACB và nhiều người nhà của họ...đều ghi tên trong danh sách, thì những người còn lại nằm trong top 100 phần lớn cũng đều nắm giữ cổ phiếu của các ngân hàng tăng giá cao trong năm qua như TCB, VPB, ACB, TPB, STB, HDB.

(Theo Doanh nghiệp và Tiếp thị)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25100.00 25120.00 25440.00
EUR 26325.00 26431.00 27607.00
GBP 30757.00 30943.00 31897.00
HKD 3164.00 3177.00 3280.00
CHF 27183.00 27292.00 28129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15911.00 15975.00 16463.00
SGD 18186.00 18259.00 18792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17956.00 18028.00 18551.00
NZD   14666.00 15158.00
KRW   17.43 19.02
DKK   3535.00 3663.00
SEK   2264.00 2350.00
NOK   2259.00 2347.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ