Thị trường bất động sản KCN phía Nam lọt tầm ngắm các ông lớn TTC, T&T, Novaland

Nhàđầutư
T&T đầu tư mạnh vào Khu công nghiệp (KCN) Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), Novaland Industrial Park rục rịch ra mắt dự án bất động sản KCN… Một loạt động thái của các ông lớn trong lĩnh vực bất động sản cho thấy, phân khúc bất động sản KCN ở thị trường phía Nam đang là mảnh đất màu mỡ.
LIÊN THƯỢNG
30, Tháng 07, 2022 | 06:21

Nhàđầutư
T&T đầu tư mạnh vào Khu công nghiệp (KCN) Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), Novaland Industrial Park rục rịch ra mắt dự án bất động sản KCN… Một loạt động thái của các ông lớn trong lĩnh vực bất động sản cho thấy, phân khúc bất động sản KCN ở thị trường phía Nam đang là mảnh đất màu mỡ.

Loạt ông lớn đổ bộ

Mới đây, Công ty CP Tập đoàn T&T (T&T Group) đã đánh dấu sự hiện diện của mình trên thị trường bất động sản KCN phía Nam với dự án phát triển kết cấu hạ tầng KCN Vàm Cống (tỉnh An Giang).

Cụ thể, ngày 25/7, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành đã ký Quyết định 890/QĐ-TTg phê duyệt chủ trương đầu tư dự án phát triển kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp (KCN) Vàm Cống, tỉnh An Giang, nhà đầu tư là T&T Group.

Hinh trang tong quan

TTC là một trong những thương hiệu bất động sản thành công trong mảng KCN (ảnh: TTCIZ)

Địa điểm thực hiện dự án tại phường Mỹ Thạnh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Quy mô dự án 193,31 ha (không bao gồm phần đất giao thông đối ngoại 5,89 ha là đường tránh Quốc lộ 91 qua thành phố Long Xuyên, cắt ngang khu công nghiệp); trong đó cơ cấu sử dụng đất của Dự án được điều chỉnh theo quy định của pháp luật về xây dựng, pháp luật về nhà ở và pháp luật về quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế.

Đây là dự án KCN đầu tiên của T&T tại thị trường phía Nam, ông lớn của thị trường bất động sản phía Bắc không giấu diếm tham vọng lấn sân đa ngành và đặt dấu ấn của mình lên thị trường màu mỡ phía Nam.

Nhưng T&T Group không phải là cái tên duy nhất hiện diện trên thị trường bất động sản KCN đầy màu mỡ này.

Hồi 2008, Công ty CP Khu Công nghiệp Thành Thành Công (TTCIZ) thuộc TTC Group được thành lập. Đến 2010, sau khi tập đoàn Bourbon thoái vốn tại KCN Bourbon Tây Ninh, TTCIZ chính thức tiếp nhận KCN này và đổi tên thành KCN Thành Thành Công Tây Ninh. Quy mô khu công nghiệp này là 1.020ha.

Một tên tuổi nữa trong làng bất động sản cũng chuẩn bị lấn sân đầu tư bất động sản KCN là Novaland, với thương hiệu Novaland Industrial Park. Tập đoàn đa ngành này đang nghiên cứu, đầu tư thêm tại các địa phương Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An,... Dự kiến sẽ công bố KCN mới tại Tây Ninh vào nửa cuối năm nay.

Thị trường đầy màu mỡ

Theo các chuyên gia, thị trường bất động sản KCN phía Nam còn nhiều dư địa và tiềm năng. Thứ nhất, khu vực này có TP.HCM được xem là thủ phủ kinh tế và là điểm đến thu hút đầu tư nước ngoài.

Ngoài ra, Bà Rịa – Vũng Tàu với lợi thế cảng biển cũng như Đông Nai, Bình Dương sở hữu quỹ đất lớn và hạ tầng bài bản, là điểm nhấn giúp các thương hiệu chú ý đến thị trường phía Nam.

Đặc thù vùng miền hình thành nhiều cảng biển lớn với tải lượng hàng hóa cao, khi khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển nửa đầu năm nay đạt gần 370,8 triệu tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2021 (theo số liệu của Cục Hàng Hải Việt Nam).

Trong báo cáo thị trường bất động sản phía Nam quý 2/2022 của CBRE, đơn vị này cho biết, nhờ tỷ lệ lấp đầy khả quan, giá thuê đất KCN trung bình ghi nhận mức tăng trưởng tại các thành phố công nghiệp chính tại phía Nam so với cùng kỳ năm trước.

Dữ liệu do CBRE Việt Nam khảo sát 4 tỉnh/ thành phố được đơn vị này coi là trọng điểm công nghiệp phía Nam là TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương và Long An cho thấy, giá chào thuê thậm chí tăng 8-13% so với cùng kỳ năm trước. Giá đất công nghiệp dự kiến sẽ duy trì ở mức cao, trong khi giá thuê nhà kho và xưởng dự kiến biến động nhẹ ở mức 0-3%/năm.

Theo đó, thị trường TP.HCM ghi nhận mức giá thuê trung bình cao nhất, dao động từ 180 - 300 USD/m2, tiếp theo là thị trường Long An với mức giá thuê trung bình trong khoảng 125 - 275 USD/m2. Mức giá thuê KCN trung bình ở Bình Dương là từ 100 - 250 USD/m2 còn Đồng Nai có mức giá thuê trong khoảng 100 – 200 USD/m2. Mức giá này được tính cho mỗi chu kỳ thuê. CBRE Việt Nam không đưa ra mức giá thuê KCN trung bình ở thị trường Bà Rịa – Vũng Tàu.

Trong khi đó, Cushman & Wakefield khảo sát thêm Bà Rịa – Vũng Tàu và cho rằng, địa phương sở hữu 9.000 ha đất khu công nghiệp này đưa ra mức giá chào thuê cao nhất khoảng 180 USD/m2 cho mỗi chu kỳ thuê.

Theo CBRE Việt Nam, tổng quy mô đất KCN của 4 địa phương nói trên (trừ Bà Rịa – Vũng Tàu) là hơn 30.000 ha, với tỉ lệ lấp đầy ở mức trên 90%. Trong đó, Bình Dương là địa phương có tỉ lệ lấp đầy cao nhất, đạt trên 95% tổng diện tích hơn 10.000ha. Tiếp theo là TP.HCM với tỉ lệ lấp đầy 95% cho khoảng 4.100ha đất KCN. Đồng Nai có tỉ lệ lấp đầy gần 95% cho gần 10.000ha đất. Còn Long An sở hữu khoảng 4.500ha đất KCN có tỉ lệ lấp đầy 85%.

Sau 2 năm chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19 nền kinh tế Việt Nam trong 6 tháng đầu năm nay đã phục hồi tích cực, tăng trưởng GDP đạt 6,42%, kinh tế vĩ mô ổn định, hoạt động FDI và xuất khẩu tiếp tục khởi sắc. Cùng với việc Chính phủ triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh, đặc biệt là việc ban hành Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5 vừa qua về quản lý Khu công nghiệp và Khu kinh tế, dòng vốn đầu tư trong nước và nước ngoài vào các khu công nghiệp đang hứa hẹn sẽ tiếp tục gia tăng.

Nhằm đánh giá thực trạng, nhận diện tiềm năng, cơ hội đầu tư vào Khu công nghiệp, Khu kinh tế trong bối cảnh mới và đề xuất các giải pháp khơi thông dòng vốn đầu tư, nhất là FDI chất lượng cao vào các Khu công nghiệp - Khu kinh tế, được sự chỉ đạo và hỗ trợ của Bộ KH&ĐT và Hiệp hội Doanh nghiệp Đầu tư nước ngoài, Tạp chí Nhà đầu tư/Nhadautu.vn tổ chức Diễn đàn Khu công nghiệp Việt Nam 2022 với chủ đề "Khơi thông làn sóng đầu tư mới".

Thời gian tổ chức từ 8-12h, thứ 5, ngày 11/8/2022 tại Novaland Gallery, số 2 Bis Nguyễn Thị Minh Khai, phường Đa Kao, quận 1, TP.HCM.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25030.00 25048.00 25348.00
EUR 26214.00 26319.00 27471.00
GBP 30655.00 30840.00 31767.00
HKD 3156.00 3169.00 3269.00
CHF 27071.00 27180.00 27992.00
JPY 159.45 160.09 167.24
AUD 15862.00 15926.00 16400.00
SGD 18109.00 18182.00 18699.00
THB 667.00 670.00 696.00
CAD 17920.00 17992.00 18500.00
NZD   14570.00 15049.00
KRW   17.26 18.81
DKK   3520.00 3646.00
SEK   2265.00 2349.00
NOK   2255.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ