Giá vàng hạ nhiệt

Sau đợt tăng giá từ tuần trước, giá vàng thế giới một lần nữa không thành công trong việc kiểm tra ngưỡng tâm lý quan trọng 1.900 USD/ounce và có dấu hiệu hạ nhiệt.
QUANG THẮNG
23, Tháng 12, 2020 | 08:03

Sau đợt tăng giá từ tuần trước, giá vàng thế giới một lần nữa không thành công trong việc kiểm tra ngưỡng tâm lý quan trọng 1.900 USD/ounce và có dấu hiệu hạ nhiệt.

Trong phiên giao dịch 21/12 (giờ Mỹ) tương ứng với đêm qua (giờ Việt Nam), giá vàng thế giới một lần nữa kiểm tra lại ngưỡng tâm lý quan trọng 1.900 USD/ounce. Có thời điểm, giá kim loại quý đã bỏ xa mốc này nhưng tâm lý chốt lời của nhà đầu tư xuất hiện đã kéo giá giảm một mạch về vùng dưới 1.860 USD/ounce.

Thị trường sau đó có xu hướng giao dịch ổn định trở lại và đóng cửa phiên ở ngưỡng trên dưới 1.880 USD/ounce.

Cụ thể, giá vàng trên sàn New York đêm qua ghi nhận đà giảm 4,3 USD so với phiên liền trước, đóng cửa ở mức 1.876,7 USD/ounce. Tương tự, giá vàng giao ngay trên sàn Kitco cũng giữ xu hướng giảm nhẹ so với chốt phiên sớm đầu tuần này, hiện ở mức 1.882,8 USD/ounce. Tuy nhiên, so với cuối tuần trước, giá vàng tại đây vẫn cao hơn gần 2 USD.

Trên sàn Comex, giá vàng tương lai giao tháng 2/2021 cũng giảm 1,3 USD, giao dịch lần cuối ở mức 1.887,6 USD/ounce.

Trong phiên đêm qua, giá vàng thế giới giảm chủ yếu do tâm lý bán tháo của nhà đầu tư khi mặt hàng này vượt mốc 1.900 USD/ounce. Biểu đồ giá hàng ngày trên Kitco ghi nhận xu hướng bán tháo rất mạnh của nhà đầu tư vào đầu phiên 21/12 khi giá tăng lên mốc 1.905 USD. Thậm chí, nhiều nhà đầu tư hoảng loạn đã bán ra kim loại quý với giá chỉ 1.855 USD/ounce trong phiên đêm qua.

Trong khi đó, chỉ số DXY đo sức mạnh đồng USD đêm qua cũng giữ xu hướng giảm nhẹ giúp giá vàng không giảm quá sâu.

GIA_VANG_TRONG_THANG_12

 

Tại thị trường trong nước, giá thế giới hạ nhiệt đã khiến giá vàng miếng trong nước giảm nhẹ sáng nay.

Công ty TNHH MTV Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC) sáng nay niêm yết giá vàng miếng khu vực TP.HCM ở mức 55,2 - 55,7 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra), giảm 100.000 đồng so với cuối ngày hôm qua. Tương tự, giá vàng miếng bán ra tại khu vực Hà Nội sáng nay cũng giảm về 55,72 triệu/lượng. Tuy nhiên, mức giá này vẫn cao hơn cuối tuần trước 200.000 đồng/lượng.

Cũng trong sáng nay, Công ty CP Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận (PNJ) niêm yết giá vàng miếng tại cả 4 khu vực TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ và Hà Nội ở mức 55,1 triệu/lượng (mua) và 55,65 triệu/lượng (bán), giảm 100.000 đồng chiều mua và 150.000 đồng chiều bán so với cuối ngày hôm qua.

Tập đoàn Vàng bạc Đá quý DOJI hiện chấp nhận mua vào vàng miếng ở mức 55,15 triệu/lượng, tăng 150.000 đồng nhưng giá bán lại giảm 50.000 đồng so với chiều qua, hiện ở 55,75 triệu/lượng.

Theo các chuyên gia phân tích vàng, sau đợt tăng giá gần 70 USD tuần trước, kim loại quý sẽ bước vào giai đoạn tích lũy ngắn hạn và tạo nền trước khi tiếp tục thử thách vùng 1.900 USD.

Một điểm tích cực trên thị trường là các nhà đầu tư tổ chức đã quay lại với mặt hàng này. Trong đó, sau hàng loạt phiên bán ròng từ tuần trước, quỹ đầu tư vàng lớn nhất thế giới SPDR đã có động thái gom hàng với khối lượng 2,04 tấn phiên vừa qua.

Điều này cho thấy việc Quốc hội Mỹ thông qua gói cứu trợ 900 tỷ USD cùng tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp trên thế giới vẫn khiến các nhà đầu tư tìm đến tài sản trú ẩn an toàn là vàng.

Về dài hạn, vàng vẫn được hưởng lợi từ các trợ lực vĩ mô như mặt bằng lãi suất thấp, dòng tiền mới liên tục được bơm ra từ các gói cứu trợ khiến lạm phát gia tăng, dịch bệnh vẫn chưa có dấu hiệu được kiểm soát. Các chuyên gia vẫn giữ quan điểm kỳ vọng giá vàng có thể đạt mốc 1.900 USD/ounce trước khi năm 2020 khép lại.

(Theo Zing)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ