Doanh nghiệp bất động sản tiếp tục dẫn đầu cuộc đua phát hành trái phiếu

Nhàđầutư
Theo thống kê của SSI, nhóm doanh nghiệp bất động sản tiếp tục dẫn đầu cuộc đua phát hành trái phiếu năm 2020 với tổng cộng 182,6 nghìn tỷ đồng trái phiếu chiếm 40,1% tổng phát hành toàn thị trường.
ĐÌNH VŨ
04, Tháng 03, 2021 | 16:48

Nhàđầutư
Theo thống kê của SSI, nhóm doanh nghiệp bất động sản tiếp tục dẫn đầu cuộc đua phát hành trái phiếu năm 2020 với tổng cộng 182,6 nghìn tỷ đồng trái phiếu chiếm 40,1% tổng phát hành toàn thị trường.

Trong báo cáo thị trường trái phiếu doanh nghiệp mới đây, SSI cho biết, chịu tác động của Nghị định 81, lượng trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) phát hành giảm tốc khá mạnh trong quý 4/2020. Các doanh nghiệp đã phát hành 81,5 nghìn tỷ đồng, giảm 30% so với cùng kỳ năm 2019 và giảm 59% so với quý 3/2020. 

Tính chung cả năm 2020, các doanh nghiệp phát hành tổng cộng 455 nghìn tỷ đồng, tăng 48,4% so với lượng phát hành năm 2019. Trong đó, chỉ có 23,5 nghìn tỷ đồng trái phiếu phát hành ra công chúng, tương đương 5,2% tổng lượng phát hành; 94,8% là phát hành riêng lẻ.

Cho đến cuối năm 2020, tổng lượng TPDN lưu hành ước tính khoảng 960 nghìn tỷ đồng, tăng 39,7% so với cuối 2019. Quy mô thị trường TPDN tăng liên tục trong những năm gần đây, hiện chiếm khoảng 12% GDP của Việt Nam. 

trai-phieu

 Ảnh minh hoạ. Nguồn: Internet

Doanh nghiệp bất động sản tiếp tục dẫn đầu trong cuộc đua phát hành trái phiếu. Trong năm 2020, các doanh nghiệp BĐS phát hành tổng cộng 182,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,1% tổng phát hành toàn thị trường – tăng so với tỷ trọng 39,6% năm 2019 và là nhóm phát hành nhiều nhất trong 2 năm gần đây.

Kỳ hạn bình quân năm 2020 của trái phiếu bất động sản là 3,95 năm – tăng nhẹ so với 3,91 năm của năm 2019, đặc biệt tăng mạnh trong quý 3 và quý 4. Các lô phát hành trong tháng 8/2020, tháng phát hành nhiều nhất trong năm, có kỳ hạn bình quân lên tới 4,6 năm.

Một số lô phát hành lớn có kỳ hạn dài gồm: CTCP TM-QC-XD- Địa ốc Việt Hân (6.000 tỷ đồng, kỳ hạn 7 năm); CTCP Đầu tư và Quản lý khách sạn TNH (3.000 tỷ đồng, kỳ hạn 7 năm); CTCP Tổng hợp Thế giới Xanh (1.750 tỷ đồng, kỳ hạn 6 năm); CTCP BĐS HANO-VID (8.655 tỷ đồng; kỳ hạn 5,7 năm)...

Trong đó, đáng chú ý, trong năm 2020 lượng trái phiếu bất động sản không có tài sản đảm bảo hoặc đảm bảo bằng cổ phiếu khá lớn. Cụ thể, có 35,7 nghìn tỷ đồng trái phiếu phát hành mới không có tài sản đảm bảo, chiếm 19,6% tổng lượng trái phiếu bất động sản phát hành. Trong đó, các tổ chức phát hành nhiều nhất là CTCP BĐS HANO-VID; CTCP BĐS Mỹ; CTCP TM-QC-XD Địa ốc Việt Hân; TNR holdings... 

Năm 2020, toàn thị trường có gần 37 nghìn tỷ đồng trái phiếu phát hành được đảm bảo bằng cổ phiếu thì riêng nhóm bất động sản có 27,1 nghìn tỷ đồng (chiếm 73,2%). Như vậy, tổng lượng trái phiếu bất động sản không có tài sản đảm bảo hoặc đảm bảo bằng cổ phiếu phát hành năm 2020 là gần 63 nghìn tỷ đồng.

Đáng chú ý, SSI cho biết, nhóm TPDN năng lượng và khoáng sản gia tăng mạnh lượng phát hành. Tổng cộng nhóm này đã phát hành 40,6 nghìn tỷ đồng trong năm 2020, cao gấp 3 lần lượng phát hành năm 2019 giúp cho tỷ trọng trong tổng phát hành toàn thị trường của nhóm này tăng từ 4,3% (2019) lên 9% (2020).

Trong nhóm trái phiếu năng lượng và khoáng sản, các doanh nghiệp năng lượng gia tăng tỷ trọng phát hành. Năm 2020, các doanh nghiệp khoáng sản phát hành 4,9 nghìn tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 12%, tăng 57,3% so với 2019); các doanh nghiệp năng lượng phát hành 35,7 nghìn tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 88% và tăng 274% so với 2019).

Mức huy động vốn trái phiếu cho các dự án năng lượng tăng mạnh với cả điện mặt trời, điện gió và thủy điện trong đó các dự án điện mặt trời vẫn chiếm tỷ trọng phát hành lớn nhất. Số vốn trái phiếu huy động cho các dự án điện mặt trời tăng từ 8,43 nghìn tỷ đồng trong năm 2019 lên 29,9 nghìn tỷ đồng trong năm 2020.

SSI cho rằng, việc cắt giảm sản lượng năng lượng tái tạo có thể làm gia tăng rủi ro với nhóm trái phiếu điện mặt trời. Theo EVN, sản lượng điện mặt trời trên toàn quốc năm 2020 là 10,6 tỷ KWh (trong đó điện mái nhà là 1,15 tỷ KWh), chiếm khoảng 4,3% tổng sản lượng huy động nguồn toàn hệ thống điện quốc gia. Trong năm 2020, EVN đã phải cắt giảm 365 triệu KWh điện mặt trời do quá tải lưới nội vùng, chủ yếu ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận và một số tỉnh miền Trung. EVN dự kiến cắt giảm khoảng 1,3 tỷ KWh năng lượng tái tạo trong năm 2021.

Dự báo thị trường TPDN năm 2021

Theo SSI, lượng phát hành ra công chúng sẽ cải thiện so với năm 2020. Việc siết chặt điều kiện nhà đầu tư mua TPDN phát hành riêng lẻ sẽ là động lực khiến các doanh nghiệp chuyển sang hình thức phát hành ra công chúng để tiếp cận được nguồn tiền đầu tư từ các cá nhân nhỏ lẻ. Tỷ trọng phát hành ra công chúng có thể tăng so với mức chỉ 5,2% của năm 2020.

Cùng với đó, các ngân hàng sẽ giảm đầu tư vào TPDN. Cụ thể, dự thảo Thông tư quy định việc tổ chức tín dụng (TCTD) mua, bán TPDN đang lấy ý kiến với quy định TCTD không được mua trái phiếu của tổ chức phát hành có phát sinh nợ xấu trong 12 tháng gần nhất (tại tất cả các TCTD); không được mua lại trái phiếu đã bán và/hoặc trái phiếu phát hành cùng lô/đợt với trái phiếuđã bán trong vòng 12 tháng; không được bán TPDN cho các công ty con.

Theo định hướng, các NHTM sẽ tập trung vào kênh tín dụng ngắn hạn và TPDN sẽ là kênh huy động vốn vay trung và dài hạn của doanh nghiệp; việc các NHTM cấp tín dụng cho doanh nghiệp thông qua đầu tư TPDN cũng sẽ hạn chế hơn.

SSI nhận định mặt bằng lãi suất tiền gửi thấp (chỉ từ 4,5%-5,5%/năm với kỳ hạn 12 tháng) dự kiến vẫn tiếp tục duy trì ít nhất là trong nửa đầu năm 2021 và có thể chỉ nhích nhẹ vào nửa cuối năm. Ở mức lãi suất này, đầu tư TPDN đang mang lại tỷ suất sinh lời cao hơn từ 2-5%/năm so với tiền gửi nên vẫn là kênh đầu tư hấp dẫn. Môi trường lãi suất thấp vẫn là động lực cơ bản thúc đẩy cả thị trường sơ cấp và thứ cấp TPDN tăng trưởng.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25100.00 25120.00 25440.00
EUR 26325.00 26431.00 27607.00
GBP 30757.00 30943.00 31897.00
HKD 3164.00 3177.00 3280.00
CHF 27183.00 27292.00 28129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15911.00 15975.00 16463.00
SGD 18186.00 18259.00 18792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17956.00 18028.00 18551.00
NZD   14666.00 15158.00
KRW   17.43 19.02
DKK   3535.00 3663.00
SEK   2264.00 2350.00
NOK   2259.00 2347.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ