Cần sớm điều chỉnh tuổi nghỉ hưu - Bài 2: Nhìn từ thực tiễn

Nhàđầutư
Tốc độ già hóa dân số tăng nhanh đưa Việt Nam tiệm cận gần với ngưỡng dân số già, tuổi thọ bình quân hiện được cải thiện nhiều với tỷ lệ sống khỏe sau 60 tuổi đứng thứ 41/183 quốc gia. Con số tổng kết từ thực tiễn này cho thấy sự cần thiết cũng như tính khả thi khi điều chỉnh tuổi nghỉ hưu.
Thạc sỹ DƯƠNG NGỌC ÁNH
31, Tháng 05, 2019 | 06:30

Nhàđầutư
Tốc độ già hóa dân số tăng nhanh đưa Việt Nam tiệm cận gần với ngưỡng dân số già, tuổi thọ bình quân hiện được cải thiện nhiều với tỷ lệ sống khỏe sau 60 tuổi đứng thứ 41/183 quốc gia. Con số tổng kết từ thực tiễn này cho thấy sự cần thiết cũng như tính khả thi khi điều chỉnh tuổi nghỉ hưu.

BAN CHI TRA BHXH

Thực tiễn cho thấy sự cần thiết cũng như tính khả thi khi điều chỉnh tuổi nghỉ hưu.

Trong quá trình phát triển, việc điều chỉnh các chính sách kinh tế, xã hội cho phù hợp với điều kiện đặc thù của từng giai đoạn, từng thời kỳ là việc mà tất cả các quốc gia đều phải đối mặt. Có những chính sách khi điều chỉnh sẽ được nhận được sự đồng thuận, có những chính sách ít nhận được sự đồng thuận nhưng đứng trên góc nhìn thực tiễn vẫn phải triển khai.

Việc điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu thường ít nhận được sự đồng thuận, điều này không chỉ xảy ra với Việt Nam mà với hầu hết các nước. Vậy thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đang đặt ra những yêu cầu gì để cần xem xét, điều chỉnh tuổi nghỉ hưu?

Thứ nhất, điều chỉnh tuổi nghỉ hưu nhằm ứng phó với sự thiếu hụt lao động trong tương lai.

Theo báo cáo thống kê từ Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Tổ chức lao động Quốc tế, 15 năm năm trước, những năm 2004 - 2009, mỗi năm lực lượng lao động Việt Nam tăng 1,2 triệu người. Năm năm gần đây, từ 2014-2019, mỗi năm tăng chỉ 400 nghìn người, tức là chỉ tăng bằng 1/3 so với 15 năm trước. Điều này chứng tỏ Việt Nam đang bước nhanh ra thời kỳ dân số vàng để chuyển sang giai đoạn dân số già. Nếu không mở rộng tuổi nghỉ hưu, chắc chắn chúng ta sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động trong tương lai. Kinh nghiệm các nước là phải điều chỉnh tuổi nghỉ hưu phải tiến hành sớm, từ trước khi bước sang giai đoạn già hóa dân số thì mới kịp thời ứng phó. Đây chính là thời điểm phù hợp để chúng ta tiến hành điều chỉnh tuổi nghỉ hưu nhằm chủ động ứng phó sự thiếu hụt lao động trong tương lai.

Thứ hai, điều chỉnh tuổi nghỉ hưu nhằm hướng tới thực hiện các công ước quốc tế về bình đẳng giới.

Trong suốt thời gian qua, chúng ta đã duy trì khoảng cách tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ là 05 tuổi với lý do với các đặc điểm thể chất, tâm sinh lý, phụ nữ cần được nghỉ ngơi sớm hơn nam giới. Nhưng thực tế cho thấy, khi tuổi nghỉ hưu của nam và nữ chênh lệch quá lớn, sẽ hạn chế cơ hội làm việc và thăng tiến của phụ nữ. Trong một phát biểu mới đây, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam Nguyễn Thị Thu Hà cho rằng, vì tuổi nghỉ hưu sớm hơn 05 năm nên cơ hội việc làm và thăng tiến của nữ thấp hơn nam. Cũng vì nghỉ hưu sớm hơn nên mức lương tối đa khi đi làm của nữ cũng thấp hơn, thời gian tham gia BHXH ngắn hơn, do vậy lương hưu của nữ cũng thấp hơn nam. Vì vậy, cuộc sống khi về già của phụ nữ khó khăn hơn nam giới. Theo Công ước CEDAW về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, khuyến nghị tuổi nghỉ hưu nam và nữ thu hẹp lại tiến tới bằng nhau.

Thứ ba, điều chỉnh tuổi nghỉ hưu bảo đảm phù hợp sức khỏe và nhu cầu của người lao động.

Khi dự thảo Bộ luật Lao động được đưa ra xin ý kiến rộng rãi, nhiều người lo lắng tuổi thọ của Việt Nam tăng nhưng số năm sống khỏe mạnh sau tuổi 60 thấp. Vậy liệu sau tuổi 60 người lao động có còn đủ sức khỏe để đi làm?

Theo số liệu được công bố tại Website của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) với lần truy cập gần nhất ngày 06/4/2018, khảo sát số liệu đánh giá về chỉ số sống khỏe mạnh sau 60 tuổi của 183 quốc gia, Việt Nam xếp thứ 41, tức là chúng ta đứng sau 40 nước và đứng trên 142 nước. Số năm sống khỏe mạnh sau tuổi 60 của Việt Nam là 17 năm, quốc gia có chỉ số cao nhất là Singapore với 21 năm và Nhật Bản đứng thứ ba với 20,8 năm. Ngay tại 46 quốc gia trong khu vực châu Á, đánh giá về chỉ số sống khỏe mạnh sau tuổi 60, Việt Nam chỉ đứng thứ năm sau Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Israel. Việc điều chỉnh phụ nữ tăng thêm 5 tuổi và nam thêm 2 tuổi có thể khả thi khi nhìn vào chỉ số này.

Số liệu này hoàn toàn có thể tin cậy khi công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân của cả hệ thống chính trị trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu, với 96,4% xã, phường có trạm y tế, rất nhiều mặt về đời sống được cải thiện. Chúng ta loại trừ nhiều dịch bệnh. Việc tiếp cận y tế ở từng vùng, miền có thể còn có những điều chưa thực sự hài lòng nhưng được cải thiện rất nhiều và rất rõ rệt.

Thứ tư, bảo đảm tốt hơn nguyên tắc đóng – hưởng BHXH và góp phần cải thiện đời sống người nghỉ hưu.

Với việc nâng dần tuổi nghỉ hưu, mức lương làm căn cứ đóng BHXH của người lao động trước khi nghỉ hưu sẽ cao hơn; số năm tham gia BHXH nhiều lên, đồng nghĩa với việc tỷ lệ hưởng lương hưu cao hơn và mức tiền lương bình quân làm căn cứ tính hưởng lương hưu cao hơn. Quyền lợi BHXH của người lao động cũng sẽ tốt hơn, mức lương hưu cao hơn bảo đảm tốt hơn cuộc sống khi nghỉ hưu. Mặt khác, với những năm đóng BHXH vượt lên, người lao động vẫn được nhận trợ cấp BHXH một lần khi nghỉ hưu.

Tất nhiêu, bên cạnh đó cũng có những trường hợp ngoại lệ như có những công việc, ngành nghề khó có thể làm việc đến tuổi 60 và 62, nhưng những trường hợp ngoại lệ này vẫn sẽ có những quy định linh hoạt, đồng thời bên cạnh đó cũng cần có những chính sách đồng bộ, tổng thể hơn về đào tạo nghề, đào tạo chuyển đổi nghề với một số ngành, nghề có tuổi nghề ngắn...

Từ những phân tích trên có thể thấy, việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu lần này đã được các cơ quan soạn thảo hết sức cân nhắc, thận trọng. Các căn cứ thực tiễn nêu trên cho thấy, vấn đề điều chỉnh tuổi nghỉ hưu đã chọn được thời điểm thích hợp và thực sự là yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn.

(Còn tiếp)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24600.00 24610.00 24930.00
EUR 26213.00 26318.00 27483.00
GBP 30551.00 31735.00 31684.00
HKD 3105.00 3117.00 3219.00
CHF 27051.00 27160.00 28008.00
JPY 159.87 160.51 167.97
AUD 15844.00 15908.00 16394.00
SGD 18015.00 18087.00 18623.00
THB 664.00 667.00 694.00
CAD 17865.00 17937.00 18467.00
NZD   14602.00 15091.00
KRW   17.66 19.27
DKK   3523.00 3654.00
SEK   2299.00 2389.00
NOK   2259.00 2349.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ