Áp lực bán dâng cao, VN-Index giảm hơn 14 điểm

Nhàđầutư
Nhóm thép tiếp tục là điểm nhấn trên thị trường chứng khoán với loạt cổ phiếu tăng điểm. Tuy nhiên, biên độ tăng hôm nay đã thu hẹp hơn hẳn so với phiên "bùng nổ" 16/12.
TẢ PHÙ
19, Tháng 12, 2022 | 16:36

Nhàđầutư
Nhóm thép tiếp tục là điểm nhấn trên thị trường chứng khoán với loạt cổ phiếu tăng điểm. Tuy nhiên, biên độ tăng hôm nay đã thu hẹp hơn hẳn so với phiên "bùng nổ" 16/12.

Empty

VN-Index giảm hơn 14 điểm trong phiên 19/12. Ảnh: Trọng Hiếu.

Thị trường chứng khoán mở cửa phiên đầu tuần 19/12 đầy hứng khởi. Với ảnh hưởng tích cực từ các cổ phiếu vốn hóa lớn, chứng khoán, ngân hàng, VN-Index tăng điểm mạnh và chốt phiên sáng thậm chí đã vượt mốc 1.060 điểm.

Trái ngược phiên sáng, áp lực bán dâng cao trong phiên chiều đã đẩy chỉ số chính dần thu hẹp đà tăng. Chỉ số “đảo chiều” giảm điểm từ quãng 14g trở đi và hoàn toàn đánh mất thế cân bằng chỉ vài phút trước phiên ATC khi lực bán xuất hiện ở một loạt các cổ phiếu vốn hóa lớn.  

VN-Index chốt phiên giảm 14 điểm (-1,34%) ở mức 1.038,4 điểm – vùng thấp nhất trong ngày giao dịch hôm nay. Thanh khoản HoSE đạt hơn 16.042 tỷ đồng GTGD, tăng 3,44% so với phiên hôm trước. Độ rộng chỉ số nghiêng về bên bán với 257 mã giảm điểm, 159 mã tăng điểm.

Các nhóm ngành chính hôm nay đều giảm điểm rất mạnh với số mã đỏ chiếm ưu thế hơn hẳn. Rổ cổ phiếu đại diện 30 mã vốn hóa lớn nhất ghi nhận chỉ 4 mã tăng gồm VRE (+4,2%), MSN (+1,6%), HDB và TCB cùng tăng 0,3%; nhưng có đến 25 mã giảm điểm, trong độ bộ đôi PDR và NVL giảm mạnh nhất lần lượt ở mức -4,8% và -3,8%. Ngoài ra, đà giảm điểm từ bộ đôi VIC (-3,3%), VHM (-2,2%) càng gây áp lực lên chỉ số.

Nhóm chủ lực ngân hàng không còn duy trì sự hứng khởi như trong phiên sáng. Cho đến thời điểm chốt phiên, chỉ có một số mã vốn hóa vừa và nhỏ tăng điểm như KLB (+7,9%), SGB (+2,4%), VBB (+2,4%), EIB (-1,8%)…. Trong khi đó, nhóm vốn hóa lớn (trừ TCB, HDB) chốt phiên giảm điểm trong biên độ từ 0,2-3%. Với việc 8/30 mã thuộc VN30 giảm điểm, sự suy yếu của nhóm ngân hàng đã ảnh hưởng lớn đến chỉ số VN30 nói riêng và VN-Index nói chung.

Chứng khoán hôm nay cũng giao dịch kém sắc. SSI trong phiên đã có thời điểm tăng đến hơn 6% nhưng đến cuối ngày giao dịch lại tụt về mốc tham chiếu, trong khi đồng loạt các mã lớn và vừa như VND (-3,4%), VCI (-3,2%), HCM (-3%), MBS (-1,4%), SHS (-1%), ORS (-0,5%)… điều chỉnh giảm điểm.

Tương tự, nhóm bất động sản ghi nhận sắc đỏ chiếm áp đảo với SCR, TCH giảm sàn, HPX (-6,8%), DXG (-6,6%), HDG (-5,9%), CEO (-3%)…

Không chỉ các nhóm trụ chính, nhiều nhóm ngành vừa và nhỏ hôm nay cũng giảm sâu như dầu khí, phân bón, bất động sản, khu công nghiệp, dệt may, xây dựng, hàng không và phụ trợ….

Ngược lại, nhóm thép diễn biến khá tích cực trong bối cảnh nhiều đơn vị công bố tăng giá sản phẩm trước tình hình giá phôi thép, nguyên vật liệu đầu vào tăng. Tuy nhiên, tâm lý hứng khởi của nhóm này không có mạnh mẽ như phiên trước đó 16/12. Có thể thấy, chỉ duy nhất POM giữ thành công mức giá trần; trong khi HSG thu hẹp đà tăng còn +1,5%; NLG về mốc tham chiếu; HPG thậm chí còn “quay đầu” giảm 2%.

Ngoài thép, một số nhóm cổ phiếu ghi nhận “ngược dòng” thị trường như thủy sản, than.

Tuy nhiên, với tỷ trọng vốn hóa với thị trường khá thấp, sự đóng góp của các nhóm này là không đáng kể.

Về giao dịch của khối ngoại, NĐTNN hôm nay mua ròng gần 109 tỷ đồng, trong đó tập trung ở các mã STB (+27,8 tỷ đồng), SHB (+27 tỷ đồng), HCM (+26 tỷ đồng), VCI (+19,3 tỷ đồng)…. Ở chiều ngược lại, khối ngoại bán ròng mạnh các mã trong nhóm VN30 như SSI (-44 tỷ đồng), VIC (-39 tỷ đồng), VNM (-34,6 tỷ đồng), KDH (-32,5 tỷ đồng)….

Trên TTCK phái sinh, cả 4 HĐTL đều đóng cửa giảm điểm trong biên độ từ -6,6 điểm đến -15 điểm. “Basis” với VN30 nằm trong khoảng -5,22 điểm đến -23,42 điểm.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ